(GIÁO DỤC TRONG GIA ĐÌNH PHẬT TỬ)
Lời
biên tập: Khóa Hội Thảo Huynh Trưởng Gia Đình Phật Tử Việt Nam tại Hoa
Kỳ được tổ chức tại miền Nam California từ 19-9-2009 đến 20-9-2009 với
nội dung: “Giáo Dục Trong Gia Đình Phật Tử”. Diễn giả trong khóa hội
thảo là TT. Thích Từ Lực, ĐĐ. Thích Đạo Quảng và GSTS. Trần Kiêm Đoàn.
Sau đây là bài tham luận của diễn giả TKĐ trình bày trong hội nghị.
Thêm một em oanh vũ
Gieo một hạt giống lành
Tươi mới đóa sen xanh
Nhú trên đài hoa cũ.
Thơ N.T
Từ nguồn gốc, Gia Đình Phật
Tử Việt Nam (GĐPT) là một tổ chức giáo dục. Một hệ thống giáo dục đặt căn
bản trên tinh thần Từ Bi, Trí Tuệ và Dũng Mãnh (Bi,Trí, Dũng) của đạo Phật.
Trong lịch sử gần 60 năm, GĐPT là một biểu tượng linh động cho thế hệ trẻ
trong các sinh hoạt chùa chiền tự viện. Đó là đội ngũ của những người tuổi
trẻ Phật tử từ tuổi ấu thơ (ngành oanh) cho đến thanh thiếu niên (ngành
thiếu). Dù ở trong bất cứ cấp độ nào, giáo dục vẫn là phương tiện nòng cốt
để xây dựng và phát huy một tổ chức hay đoàn thể có kỷ cương.
I. Nhìn lại đường lối giáo dục truyền thống trong GĐPT.
Lần đầu tiên, lễ Phật đản
năm Ất Hợi (10/05/1935) do Hội An Nam Phật học tổ chức rầm rộ tại Huế. Và
đây cũng là lần đầu, tuổi trẻ chính thức được tham gia lễ Phật với một tư
thế riêng chứ không phải chỉ là bóng mờ quen thuộc của các em bé lẽo đẽo
theo bà ngoại đến chùa. Có tất cả 52 “em”, đồng phục tươm tất, đi theo hàng
ngũ chỉnh tề trong đoàn rước Phật, mang hoa sen, vừa đi vừa hát theo điệu
Đăng đàn cung với bài hát:
"Vui mừng gặp ngày nay mồng 8 tháng tư. Ngày
khánh tiết, Phật Thích Ca ngài, hiện về Ca Tỳ La Vệ...". Hiện tượng
tuổi trẻ giữa đời, sống đạo bằng con ngườì thật đã cuốn hút sự quan tâm của
thế hệ đàn anh. Một vấn đề mới mẽ bắt đầu thành hình: Tuổi trẻ với Phật
giáo.
Ngày 10-08-1938, trong bài diễn văn khai mạc đại hội thường niên của hội An
Nam Phật học, ông hội trưởng Lê Đình Thám đã xác định:
"Không có một
thành tựu vững bền nào mà lại không nhắm đến hàng ngũ thanh thiếu niên. Các
em sẽ là những người tiếp nối chúng ta trong ngày mai...". Hai năm sau,
năm 1940, Đoàn Thanh niên Phật học Đức Dục (TNPHĐD) ra đời với sự bảo trợ
của Hội An Nam Phật học và sự hướng dẫn trực tiếp của một Phật tử có uy tín
hàng đầu về kiến thức Phật học uyên bác và tinh thần cải cách cấp tiến là
bác sĩ Tâm Minh Lê Đình Thám. Bước đầu, đoàn TNPHĐD quy tụ được một lực
lượng nhân sự uy tín và hùng hậu với sự tham gia nhiệt tình của các anh:
Phạm Hữu Bình (đoàn trưởng), Đinh Văn Nam (đoàn phó), Ngô Điền (thư ký), Võ
Đình Cường, Ưng Hội, Tráng Thông, Đinh Văn Vinh, Ngô Thừa, Nguyễn Hữu Quán,
Nguyễn Khải, Lê Kiểm, Phạm Quy, Hoàng Ngọc Phu, Lê Đình Duyên, Lâm Công
Định...
Đoàn TNPHĐD đã nổi bật trong sinh hoạt Phật giáo đương thời vì “tuổi trẻ
hành đạo” vừa là một hình ảnh tiền phong, vừa là một khái niệm rất tươi mới,
sinh động, trẻ trung và cuốn hút trong sinh hoạt tôn giáo vốn từ lâu được
xem là chỉ quy tụ toàn các bậc cao niên trưởng thượng. Đoàn đã thành lập cơ
sở văn hóa Phật giáo cho tuổi trẻ đầu tiên tại nước ta với sự ra đời của
Phật Học Tùng Thư. Các tác phẩm về tuổi trẻ và đạo Phật có giá trị được
xuất bản như:
Thanh Niên Đức Dục của Đinh Văn Nam,
Phật Giáo và
Thanh Thiếu Niên Đức Dục của Phạm Hữu Bình,
Đời Vui của Ngô Thừa,
Nghĩa Chữ Nho của Nguyễn Hữu Quán,
Ánh Đạo Vàng của Võ Đình
Cường… Song song với sinh hoạt văn hóa, các chương trình sinh hoạt tập thể
năng nỗ và phong phú cũng được xây dựng như: Hoạt động thanh niên, giáo dục
Phật pháp, Phật học thực hành…
Nhu cầu tổ chức,
đoàn ngũ hóa mang tính giáo dục cho tuổi trẻ Phật tử trở thành một nhu cầu
thời đại trong sinh hoạt Phật giáo Việt Nam. Lễ Phật đản năm 1944 tại đồi
Quảng Tế - Huế, các đơn vị thanh niên Phật học, Hướng đạo Phật giáo, Đồng ấu
Phật học... họp đại hội và khai sinh tổ chức
Gia Đình Phật Hóa Phổ.
Đó là tiền thân của
Gia Đình Phật Tử ngày nay. “Phật hóa phổ” nói
một cách nôm na là đem đạo Phật đến với mọi người. Với tuổi trẻ là giáo dục
Phật học cho thế hệ đàn em. Bốn Gia đình Phật Hóa Phổ đầu tiên được thành
lập tại Huế là Gia đình Tâm Minh, Tâm Lạc, Thanh Tịnh và Sum Đoàn do các cư
sĩ Lê Đình Thám, Phạm Quang Thiện, Tôn Thất Tùng, Nguyễn Hữu Tuân làm Phổ
trưởng. Về mặt giáo dục Phật học, các huynh trưởng tiền phong là các nhà
giáo, nhà văn có tinh thần và kiến thức Phật học vững vàng. Các anh đã phụ
trách hai phần chính là: Soạn thảo tài liệu giáo khoa và huấn luyện giảng
dạy. Về mặt hoạt động thanh niên, các huynh trưởng đầu tiên trong đoàn
Thanh Niên Phật Học Đức Dục phụ trách hướng dẫn sinh hoạt theo mô thức của
Hướng Đạo Sinh thế giới. Hệ thống Gia Đình Phật Hóa Phổ càng ngày càng lớn
mạnh theo đà phát triển của đạo Phật trong cả nước.
Gia Đình Phật Tử Việt Nam được chính thức thành lập. Đại
hội Gia Đình Phật Hóa Phổ tổ chức tại Huế vào 3 ngày 24, 25 và 26 tháng 4
năm 1951 tại chùa Từ Đàm Huế với sự tham dự của đại biểu từ Bắc vào Nam gồm
có: Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên, Đà Nẵng, Quảng
Nam, Lâm Viên, Bình Thuận, Đồng Nai. Đại hội đã đồng thuận chọn một danh
xưng thống nhất, do các huynh trưởng tiền phong là các anh Đinh Văn Nam, Ngô
Thừa, Võ Đình Cường, Phạm Hữu Bình, Võ Hữu Quán đề nghị. Đó là tên gọi GIA
ĐÌNH PHẬT TỬ VIỆT NAM chung cho Gia Đình Phật Hóa Phổ và các tổ chức thanh
niên, hướng đạo, đồng ấu Phật tử… đang còn trong giai đoạn sơ khai.
Năm 1953, khi đại
hội Gia Đình Phật Tử Việt Nam lần thứ hai được triệu tập tại Huế, với sự
tham dự đông đảo và rộng khắp của các đại biểu 3 miền Trung, Nam, Bắc thì tổ
chức GĐPT mới thật sự đi vào nề nếp ổn định, kiện toàn tổ chức. Đại hội đã
soạn thảo chương trình tu học cho các ngành, các cấp, thống nhất hình thức,
tổ chức, đồng phục, huy hiệu, phù hiệu...
Gia Đình Phật Tử Việt Nam từ đó tồn tại và
phát triển theo lịch sử thăng trầm của đạo pháp và dân tộc. GĐPT về chiều
sâu cũng như chiều rộng đã thật sự trở thành một “gia đình tâm linh” của
tuổi trẻ Phật tử Việt Nam. Từ năm 1975 đến nay, một số các thành viên cũ và
mới của GĐPT Việt Nam cũng có mặt trong những đợt người Việt đi ra nước
ngoài. Sau một thời gian ngắn tan tác và chao đảo theo hoàn cảnh mới ở nước
ngoài, các huynh trưởng và đoàn sinh GĐPT đã nhanh chóng tập hợp lại trong
mỗi địa phương có sinh hoạt chùa chiền, tự viện, tăng ni và Phật tử. Những
đơn vị GĐPT bắt đầu tái hình thành và phát triển bất cứ nơi đâu có quý tăng
ni, Phật tử và chùa chiền ở khắp các nước trên thế giới.
Trong hoàn cảnh xã hội còn xa lạ ở nước
ngoài với một địa bàn cư trú quá rộng rãi, bao la, trải dài từ Á sang Âu, tổ
chức GĐPT Việt Nam phải đối diện với những thử thách mới chưa từng có trước
đây.
Bên cạnh hoàn cảnh riêng, đạo Phật và GĐPT
Việt Nam còn phải đương đầu với những thử thách chung. Đó là cuộc cách mạng
khoa học kỹ thuật và môi trường truyền thông đại chúng đã làm thay đổi môi
trường sống cùng tri thức và tâm lý con người quá nhanh chóng.
Trong khoảng thời gian 30 năm qua, GĐPT
Việt Nam đã có nhiều cố gắng vừa để hội nhập với điều kiện và hoàn cảnh mới;
vừa nỗ lực vươn lên để khỏi bị lão hóa, lạc hậu, xa rời thực tế. Thế nhưng
hạt giống bồ đề, tuy có đâm chồi nẩy lộc, nhưng bóng mát hành đạo vẫn còn bị
lay động qua nhiều gai góc. Tình trạng phân biệt, phân hóa, phân vùng, phân
tổ chức… đã xảy ra và vẫn còn dậm chân tại chỗ. Trong những phương kế khả
thi, ngỏ hầu giảm thiểu được thực trạng tiêu cực đang trở thành “chướng
duyên” cho tuổi trẻ Phật tử trên đường tu học, giáo dục vẫn là nền tảng vững
chắc để làm chỗ dựa cho thế hệ Phật tử đàn anh dùng để nuôi dưỡng và uốn nắn
thế hệ đàn em.
II. Đặc tính tiêu biểu của một nền
giáo dục theo tinh thần Phật giáo.
Tôn giáo nói chung là một hệ thống giáo dục
khép kín hay mở rộng dựa trên một hệ thống lý thuyết hay triết lý nào đó đã
trở thành đức tin và chỗ dựa tạm linh. Đó thường là lời dạy có giá trị
thiêng liêng và đầy tôn kính nhất của một đấng chí tôn mà người theo tôn
giáo đó tin tưởng và tôn thờ. Giáo dục đời thường mang ý nghĩa tri thức và
thực dụng phục vụ cho đời sống hiện thực. Giáo dục tôn giáo mang ý nghĩa
đức tin và hành đạo phục vụ cho đời sống tâm linh. Bởi vậy, vì yếu tính
khác nhau nên phương tiện cũng khác nhau. Khác nhau giữa thế giáo và tôn
giáo đã đành; nhưng ngay trong lĩnh vực thuần túy tôn giáo vẫn hoàn toàn
khác nhau từ tôn giáo nầy đến tôn giáo khác. Thậm chí, có khi trái ngược
nhau như nước với lửa; tùy theo cách nhìn về mối tương quan của con người
với vũ trụ (vũ trụ quan), về cách nhìn thế giới (thế giới quan) và cách nhìn
con người (nhân sinh quan). Hầu như mỗi tôn giáo đều có một đấng tiên tri
thay mặt cho Thượng Đế tới cõi trần gian để làm các vị giáo chủ như: Đức
chúa Jesus Christ (đạo Chúa), Abraham (đạo Do Thái), Muhammed (đạo Hồi),
Vishnu (đạo Hindu, Ấn độ)… Chỉ có đạo Phật là tìm thể tính (be, essence,
nature) của con người ngay trong sự hiện hữu của chính nó – duy ngã độc tôn
– để xác định và giải quyết vấn đề hệ lụy nhân sinh và giải thoát giữa cuộc
đời nầy. Bởi vậy, giáo dục trong Phật giáo không phải là một sự rao giảng
mang tính tẩy não hay phải áp dụng những nguyên tắc lý thuyết đầy áp đặt mà
đấy là một quá trình rèn luyện nhân cách từ u tối, mù mờ (vô minh, tà) đến
chỗ sáng suốt, hiểu rõ (trí tuệ, chánh).
Giáo dục là một sự nghiệp có hai vế rõ
ràng: Giáo (dạy dỗ) và dục (nuôi dưỡng). Với quan niệm thông thường thì hễ
có người dạy, tất phải có kẻ học. Học để khỏi dốt (Dĩ học dũ ngu). Nhưng
khái niệm “học” trong đạo Phật không hẳn là theo ý niệm thông thường ngoài
đời. Truyền đạt không phải lúc nào cũng dùng tới lời nói; tiếp thu không
phải lúc nào cũng qua trung gian dạy và học. Tăng đoàn thời Phật còn tại
thế bao giờ cũng bao gồm hai đối tượng: Các bậc hữu học và các bậc vô học.
“Hữu” và “vô” ở đây không mang ý nghĩa là “có” (tích cực) và “vô” (tiêu cực)
trong khái niệm giáo dục đời thường. Các bậc vô học đã tu tiến và chứng ngộ
không qua phương tiện giáo dục theo hình thức thông thường. Bởi thế, cái
“học” cao nhất trong Phật giáo là sự quán niệm và chứng ngộ trực tiếp.
Nhiều trường hợp vẫn là “không thầy
riêng mầy làm nên” (vô sư tự
ngộ). Các bậc thánh tăng như Lục Tổ Huệ Năng, tuy mù chữ đời thường, nhưng
tri thức giác ngộ cốt tủy của đạo Phật thì vô cùng uyên áo.
Thời cận đại, đạo Phật Việt Nam đã đầu tư
vào giáo dục tuổi trẻ qua một hệ thống trường ốc tiêu chuẩn và các viện Phật
học. Hệ thống trường Bồ Đề nhắm vào một nền giáo dục phổ thông và đại
chúng. Các học viện Phật học ở Huế, Nha Trang, Đà Lạt, Sài gòn, Hà Nội…
nhắm vào việc giáo dục các học tăng, học ni còn trẻ. Hệ thống trường tiểu
và trung học Bồ Đề mở rộng khắp các tỉnh miền Nam thường được xem là tiêu
biểu cho khuynh hướng giáo dục Phật giáo. Thật ra, trường Bồ Đề nổi lên như
một thương hiệu giáo dục có ít nhiều liên quan đến sinh hoạt Phật giáo hơn
là mang bản chất giáo dục Phật giáo. Tuy rằng, trường Bồ Đề có giảng dạy
một số giờ giáo lý song song với giáo trình theo tiêu chuẩn phổ thông; nhưng
mục tiêu rốt ráo của nhà trường vẫn là đào tạo học sinh thi đỗ, vào đời như
tất cả các trường tư nhân và công lập khác. Hoặc cao hơn trong hệ thống
giáo dục Phật giáo là viện đại học Vạn Hạnh, nơi quy tụ tăng ni danh tiếng
và giới học giả hàng đầu của miền Nam một thời, thì vẫn còn nằm trong quỹ
đạo của một nền giáo dục khoa bảng hơn là thoát xác thành một đại học Phật
giáo chuyên ngành như tinh thần đại học Nalanda, một đại học Phật giáo quốc
tế có quy mô đồ sộ đầu tiên được xây dựng từ thế kỷ thứ 5 (427) tại bắc Ấn
Độ. Ngày nay, các đại học Phật giáo thế giới như đại học Quốc Tế ITBMU
(Miến Điện), đại học Buryatia (Nga), đại học Maha-Chulalongkora (Thái Lan),
đại học Chi-nan (Đài Loan), đại học Nagarjuna (Ấn Độ)… đều là những trường
đại học chuyên về Phật học. Tín chỉ, chứng chỉ và bằng cấp của những trường
nầy được hệ thống giáo dục quốc tế công nhận trong việc trao đổi sinh viên
ngành Nhân chủng Xã hội (Humanities and Social Sciences) giữa các nước. Tại
Việt Nam, từ năm 2007, đã có tin đặt đá xây dựng đại học Phật giáo Quảng Đức
gần Sài gòn. Nhưng đến nay vẫn chưa nghe tin khánh thành và khai giảng.
Truyền thống và hệ thống giáo dục Phật giáo
đại chúng và học viện vừa trình bày ở trên, không đóng một vai trò trực tiếp
và thương xuyên đối với vấn đề giáo dục trong sinh hoạt của GĐPT Việt Nam 60
năm qua. Sinh hoạt của GĐPT hằng tuần có một hệ thống hàng dọc riêng từ Ban
Hướng Dẫn trung ương đến từng đơn vị GĐPT chùa chiền, khuôn hội. Giáo hội
và quý tăng ni đóng vai trò cố vấn tổ chức và cố vấn giáo hạnh.
Lịch sử
và kinh nghiệm thực tế đã chứng minh rằng, sức mạnh và tinh hoa của GĐPT
Việt Nam chỉ phát huy rộng khắp, sinh động và hài hòa nhất từ thành thị đến
nông thôn là khi chỉ có một ban hướng dẫn trung ương, một hệ thống tổ chức
và một tiếng nói hòa hợp từ phía quý thầy, sư cô làm cố vấn giáo hạnh đến
quý anh chị huynh trưởng và các cư sĩ thiện tri thức hỗ trợ. Không có chính
trị đời thường xen vào lãnh đạo hay lãnh đạo xen vào chính trị.
III. Thử mạn đàm về một phương thức
giáo dục thích hợp.
Không riêng gì tuổi trẻ trong tổ chức GĐPT
Việt Nam mà tuổi trẻ cả nước và trên toàn thế giới nói chung, đang bước vào
một thế giới mới của thế kỷ 21. Giềng mối và cấu trúc của gia đình, dòng
họ, quý tộc, tên tuổi, danh thơm… của những thế kỷ trước đang bị lung lay
hay thử thách trước một sự thay đổi chưa từng thấy do cuộc chạy đua tốc độ
về những phát minh ngày một mới lạ trong nhìều lĩnh vực: Khoa học kỹ thuật,
truyền thông đại chúng, giao thông vận tải, y tế xã hội, giáo dục đào tạo.
Trong bảng thang giá trị mới (new value
system), tuổi trẻ thường xuyên đối diện và bị thách thức giữa hai cặp phạm
trù mới/cũ khác nhau hay có khi trái ngược nhau. Riêng đoàn sinh GĐPT Việt
Nam, không nhiều thì ít, vẫn đứng bâng khuâng giữa hai quan niệm sống như
hai dòng nước cần phải chọn lựa vì nước đang trôi xuôi:
- Tâm linh hay vật chất
- Cá nhân hay tập thể
- Lý tưởng hay thực dụng
- Cảm tính hay lý tính
- Cầu nguyện hay hành động
- Vì ta hay vì người
- Chấp ngã hay phá ngã…
Những cặp nhị nguyên tốt/xấu đối đãi cứ như
thế kéo dài. Tuổi trẻ hoang mang buông thả hay nắm bắt một khái niệm giá
trị vừa thích hợp, vừa đúng đắn không phải là điều đơn giản. Dưới sức ép
xảy đến chớp nhoáng tưởng chừng như tự nhiên từ phía xã hội, gia đình, tâm
lý… khiến tuổi trẻ chỉ còn biết phản ứng. Nhưng biết dựa vào đâu để có phản
ứng thích hợp, khỏi bị lạc đường và giảm thiểu tai họa va chạm giữa cuộc đời
muôn mặt nầy? Câu trả lời là: Giáo dục. Giáo dục phải được quan niệm và
sử dụng như một ngọn đèn định hướng, giúp tuổi trẻ có một phương tiện tương
đối an toàn trên đường dò dẫm tiến bước vào tương lai.
Vai trò giáo dục trong GĐPT không nhằm thay
thế cho chương trình giáo dục phổ thông ngoài đời. Vì vậy, mục đích, nguyên
tắc và phương thức giáo dục cần phải được soạn thảo, truyền đạt, ứng dụng
linh động và thích hợp theo đối tượng và hoàn cảnh cụ thể:
1. Mục đích giáo dục:
Mục tiêu giáo dục trong GĐPT là nhằm
đào tạo thế hệ trẻ thành những người công dân tốt của đất nước mình đang ở
và những Phật tử chân chính. Giáo dục là quá trình xây dựng thế hệ trẻ về
cả 4 mặt:
Khởi lòng từ bi, trau giồi trí tuệ, luyện ý chí dũng mãnh và
giữ được tinh thần khiêm tốn nhẫn nhục.
Hình ảnh người Phật tử chân chính của thế
hệ nầy là một người đơn giản, hiểu biết, có tấm lòng nhân hậu và tư cách
ngay thẳng. Đó là người có cuộc sống ổn định, có nghể nghiệp lương thiện để
sinh tồn; có kiến thức Phật học cơ bản để suy nghĩ và thực hành trong đời
sống; có tinh thần cầu tiến bộ và hiểu rõ chính mình để tinh tấn; biết mình
là ai trong mối tương quan giữa cá nhân, gia đình, dân tộc và đạo pháp để
hòa điệu sống.
Mục đích giáo dục trong sinh hoạt GĐPT
không chủ yếu nhắm vào sự thành công theo quy ước đời thường như học vị,
thăng chức, xếp loại, so sánh… mà cơ bản là hướng về sự thành nhân. Một bác
sĩ lành nghề, có đông khách là ví dụ điển hình về sự thành công của việc học
hành ngoài đời. Một cư sĩ đức hạnh, giúp được nhiều người tu học; một đoàn
sinh GĐPT gương mẫu về nhiều mặt là ví dụ điển hình về sự thành nhân của
việc học hành trong đạo. Phân định rõ ràng giữa mục đích đào tạo thành công
và thành nhân sẽ giúp người soạn thảo chương trình và sách giáo khoa, cũng
như giúp người giảng dạy chủ động chọn lựa nội dung và đường lối thích hợp.
Xa hơn thế nữa, xác định được rõ ràng mục
đích của giáo dục trong sinh hoạt GĐPT để thấy rõ vấn đề nhằm chấm dứt (hay
ít nhất là giảm thiểu) các hoạt động giáo dục dính mắc vào tính chất vụ hình
thức, cổ xúy sự cạnh tranh ích kỷ và cục bộ. Sự cạnh tranh hình thức này
thường là nguyên nhân chính của sự phân hóa, chia rẽ giữa các đơn vị GĐPT
sinh hoạt gần nhau.
2. Nguyên tắc giáo dục:
Mỗi lĩnh vực giáo dục chuyên môn đều có
nguyên tắc thích ứng riêng cho lĩnh vực đó. Giáo dục trong GĐPT Việt Nam
dựa trên những nguyên tắc lý thuyết cơ bản của đạo Phật. Bi, Trí, Dũng là
nguyên tắc hành xử của GĐPT. Tuy nhiên, qua quá trình giảng dạy, học tập
và thực hành, tinh thần Bi, Trí, Dũng thường được hiểu một cách máy móc và
diễn dịch giới hạn nên chưa phát huy được tác dụng trong nhiều hoàn cảnh và
thời đại mới như hiện nay.
Cần minh định lại nội dung Bi, Trí, Dũng
áp dụng cho GĐPT.
Bi: Là Từ Bi. Lòng từ bi là tình
thương không phân biệt của đạo Phật. Người có lòng từ bi lấy đôi mắt thương
yêu nhìn cuộc đời. Tình thương xuất phát từ lòng từ bi không phải là một sự
ban phát tình cảm thương hại của một người đứng trên tư thế cao hơn hay hạnh
phúc hơn nhìn xuống kẻ bất hạnh bên dưới. Từ bi là một sự cảm thông và chia
sẻ bình đẳng, nhìn người được giúp với lòng trân trọng như nhìn một vị Phật
tương lai. Tuổi trẻ trang bị lòng từ bi sống đơn giản và chân thành với
chính mình và với ngươi khác. Đi xa hơn trong quan hệ sinh hoạt tập thể,
tuổi trẻ có lòng từ bi không phân biệt ta với người, đơn vị mình với đơn vị
bạn. Do đó, luôn luôn có sẵn một tinh thần hiếu hòa và hóa giải; không chê
của người, không khen của ta. Sự thống nhất GĐPT không bắt nguồn từ hình
tướng phía nầy hay phía khác mà phải có cội nguồn từ lòng từ bi. Càng phân
biệt, chỉ trích, phê phán nhau thì càng xa nhau và đào sâu thêm sự phân
hóa. Càng tao ra sự kỳ thị, đương đầu, thách thức thì lòng từ bi càng nghèo
nàn và vắng bóng. Bởi vậy, trong giáo dục GĐPT, nguyên tắc Từ Bi là nguyên
tắc cơ bản của tâm hồn
cần phải được nhắc nhở và thực hành thường xuyên trong
mọi hình thức suy nghĩ, cư xử và sinh hoạt.
Trí: Là Trí Tuệ. Trí Tuệ sáng suốt
không giới hạn của đạo Phật.
Nhà Phật phân biệt hai loại trí tuệ: Trí hữu sư
và trì vô sư . Trí tuệ hữu sư có được do kiến thức tích lũy qua quá trình
nghe, suy tư và tu theo lời dạy của bậc làm thầy hay thiện hữu tri thức
(Văn-Tư-Tu). Trí vô sư là trí tuệ tự mình phát khởi do chính mình cố công
nghiêm trì giới luật và giữa tâm an định (Giới-Định-Huệ).
Trí tuệ tuổi trẻ trong GĐPT cần cả hai để
có được cái nhìn bao quát và sâu sắc; sẵn sàng mở rộng tầm nhìn để đón nhận
và học hỏi cái mới. Tuy nhiên, nếu cứ khư khư bảo thủ cái cũ hay nhắm mắt
chạy hùa theo cái mới là hai trường hợp cực đoan của sự thiếu vắng trí tuệ.
Trong một xã hội mà bộ mặt “văn hóa thế giới” đang thay đổi nhanh chóng từng
giây, từng phút về khoa học kỹ thuật, về phương tiện truyền thông và giao
lưu như hiện nay, tuổi trẻ cần phải được giáo dục về trí tuệ giải thoát của
đạo Phật. Đạo Phật lấy trí tuệ giải thoát làm căn bản. Tất cả đều là
phương tiện để đạt mục đích cuối cùng là sự an lạc trong cuộc sống và lý
tưởng giải thoát. Tuổi trẻ thường xuyên bị dính mắc với phương tiện mà quên
cứu cánh như ngồi trên chiếc xe êm dịu mà không biết về đâu hay ngồi suốt
ngày trên máy vi tính chỉ để vui chơi như người ham mê cờ bạc là có phương
tiện tốt mà không có mục đích, lý tưởng giải thoát rõ ràng.
Dũng: Là Dũng Mãnh. Dũng Mãnh là
tinh thần vô uý (không sợ hãi), vượt thắng những chướng ngại, khai quang con
đường phải đi và vững vàng tiến tới. Đó là sự tinh tấn của người Phật tử.
Dũng mãnh không đồng nghĩa với thái độ xốc nổi mù quáng, lăn xả vào mọi sự
hiểm nguy không đúng lúc, chỉ biết tiến tới mà không biết lùi. Đương đầu
với bạo lực vô minh hay xông pha vào hang hổ đói không phải là dũng mãnh mà
là vọng động cuồng điên. Giáo dục thế hệ trẻ về tinh thần dũng mãnh là phải
biết tiến tới hay thoái lui đúng lúc. Tinh thần dũng mãnh của đạo Phật thể
hiện bằng sự quán sát kỹ càng, hành xử quyết đoán đúng lúc; làm điều phải
không sợ hãi; can đảm chấp nhận cái sai đề sửa đổi (sám hối); không để sự
bất tịnh, sai trái, mê hoặc của lòng tham dục và tà kiến của ma vương lôi
kéo quật ngã.
Xin thêm một đề nghị:
Trong 3 nguyên tắc giáo dục của tinh thần
Bi, Trí, Dũng có một sự mặc nhận (hiểu ngầm) không có lợi cho vấn đề giáo
dục tuổi trẻ, đó là nguyên tắc thứ 4:
Khiêm. Khiêm Nhẫn là khiêm tốn
và nhẫn nhục mà các bậc thức giả thường cho rằng, tính khiêm nhẫn được “mặc
nhiên gói ghém” trong Bi, Trí, Dũng vì một khi đã có tình thương, trí tuệ,
dũng mãnh thì sự khiêm tốn và nhẫn nhục tự động xuất hiện. Trên thực tế, sự
suy diễn nầy đi quá xa ngoài tầm tay với của tuổi trẻ. Với tuổi trẻ, những
nguyên tắc nào hợp với khế cơ hay khế lý cần phải được ghi nhận và minh định
rõ ràng. Vì vậy, trên nguyên tắc giáo dục GĐPT, xin được đề nghị là:
Bi,
Trí, Dũng, Khiêm. Trong vài ba thập niên gần đây, hiện tượng người Phật
tử Việt Nam, nhất là tuổi trẻ Phật tử đã có những biểu hiện sa sút về đức
khiêm tốn và nhẫn nại. Đó là sự phân hóa giữa các đơn vị GĐPT. Thế hệ đàn
anh có khuynh hướng cường điệu và quá chấp chặt với quá khứ. Thế hệ đàn em
phản kháng quay lưng để nhìn về hiện tại và tương lai. Thái độ khiêm nhẫn
trong nội bộ đã khó; sự khiêm nhẫn trong quan hệ bên ngoài có vẻ còn khó
hơn. Phát huy đức tính khiêm nhẫn tức là trực tiếp tạo ra sự tôn trọng hai
chiều, biết chịu khó lắng nghe, cẩn trọng trong việc ra chỉ thị, quyết định
gây chia rẽ không cần thiết. Áp dụng thêm nguyên tắc khiêm nhẫn trong giáo
dục là góp phần tích cực hàn gắn và hóa giải sự phân hóa đang làm đau lòng
mọi Phật tử có đạo tâm trong hoàn cảnh hiện nay,
3. Phương thức giáo dục:
Mỗi phương thức giáo dục đều có một tác
dụng với từng đối tượng đặc biệt. Phần sau đây, thử góp ý, phân tích và
chia sẻ những nét tiêu biểu về một đường hướng giáo dục tương đối thích hợp
và cần thiết nhất là có thể áp dụng được (khả thi) cho tuổi trẻ và gia đình
Phật tử Việt Nam trong hoàn cảnh cụ thể trước mắt.
Giáo dục truyền thống trong đạo Phật có rất
nhiều hình thái khác nhau tùy theo hoàn cảnh, trình độ và căn cơ của người
theo học (pháp dùng phương tiện). Tuy nhiên, các hình thức thông thường
nhất là:
-
Trí giáo hay ý giáo: Dạy dỗ và truyền đạt bằng kiến thức trong
sách vở và kinh nghiệm thực tiễn trong đời sống.
-
Ngôn giáo hay khẩu giáo: Dạy dỗ và truyền đạt bằng lời giảng
giải, thuyết phục; khuyên bảo trực tiếp bằng lời nói.
-
Đức giáo: Dạy dỗ và truyền đạt bằng chính tấm gương trong sáng
về cuộc sống đạo đức và hạnh lành của bậc làm thầy.
-
Thân giáo: Dạy dỗ và truyền đạt bằng hành động bản thân của
người thầy có đầy đủ các biểu tượng của từ bi, trí tuệ, dũng mãnh và khiêm
nhẫn.
Thân giáo là một phương thức giáo dục quan trọng nhất
trong các
phương thức giáo dục Phật giáo.
Thân giáo
có hai mức độ:
Tự thân giáo và thọ thân giáo.
Tự thân
giáo
là chính
bản thân mình tự trau giồi kiến thức, nhân cách, quán niệm, điều tâm, tu
dưỡng để chuyển hóa thân tâm theo đường chánh đạo. Người tự thân giáo nương
cậy chính vào tự lực, phát huy sức mạnh nội tại của chính mình. Tự thân
giáo đòi hỏi người thực hành có một năng lực tập trung và tinh thần tự giác
cao độ.
Thọ thân
giáo
là thu thập và học hỏi qua nhân cách, đạo hạnh, uy vệ của người thuyết
giảng. Trong GĐPT, hình ảnh của thầy cô cố vấn giáo hạnh, của bác gia
trưởng, của quý anh chị trong ban Huynh trưởng đóng một vai trò thân giáo
rất quan trọng trong việc giáo dục các em. Người
giảng
dạy dẫu
có kiến
thức phong phú
, lời nói hay ho đến
mức nào
mà phong
cách
không trang nghiêm, tên tuổi
không trong sáng,
lời nói không đi đôi với việc làm thì làm sao có đủ sức
chứng minh,
thuyết phục và
và chuyển
đổi được đối tượng nghe giảng. Trong giáo dục, thân
giáo được
xem
là chuẩn mực, là quy phạm để người
giảng dạy tự suy xét chính mình.
Một anh chị huynh trưởng GĐPT mang tai tiếng thì làm sao cầm còi, hướng dẫn
các em đoàn sinh là điều hay lẽ phải. Kẻ nói năng thiếu xác tín, lên tiếng
khuyên đàn em phải làm điều lành, tránh điều dữ trong lúc bản thân mình là
đối tượng phạm pháp, mang tai tiếng tranh quyền đoạt vị, mất uy tín với gia
đình và xã hội thì thật là điều mỉa mai và phản tác dụng với thế hệ đàn em.
Nếu thân không nghiêm, hành động
thiếu quang minh chính đại thì mọi lời nói và việc làm đều không có giá trị
đạo đức và giáo dục. Đức Phật đã dạy trong kinh Pháp
Cú
rằng:
Trước nhất tự luyện mình
Đạo hạnh thành chân chính
Sau mới giáo hóa người
Thân trí đồng tương kính
Sống là học tập. Giáo dục
xuất hiện dưới nhiều dạng thức. Giáo dục trong GĐPT là một quá trình tổng
hợp của chư tăng ni, đại chúng Phật tử, gia đình đoàn sinh và GĐPT. Nguyên
tắc phương thức giáo dục nào cũng đều có thế mạnh và thế yếu. Nhưng trên
tất cả vẫn là thế đứng và sự kế thừa của thế hệ trẻ trong lòng đạo pháp và
dân tộc trong khi thế hệ già đang từ từ vắng bóng theo luật tự nhiên.
IV. Đề nghị một sự chấn
chỉnh cấp thời.
Trước khi GĐPT chính thức ra
đời, trước năm 1945, đạo Phật tại Việt Nam là một tôn giáo của các bậc cao
niên, trưởng thượng. Phật giáo dần dần bị lão hóa. Chùa chiền là việc của
chư tôn đức và của các ông già bà lão!
GĐPT Việt Nam đã làm cho đạo
Phật Việt Nam sinh động với một hình ảnh mới: Tuổi trẻ hành đạo. Tuổi trẻ
đã cùng với tuổi cao niên đi chùa, lễ bái, làm Phật sự, tu học.
Tuy nhiên, trong khung cảnh
chùa chiền, tự viện tôn nghiêm cộng với truyền thống văn hóa gia trưởng phụ
quyền lâu đời, tuổi trẻ Phật tử chưa phát huy được thế chủ động cần thiết
của mình. Tình trạng “thầy đâu trò đó” đã làm cho tuổi trẻ Phật tử không
vươn lên khỏi vai trò chỉ để “trang hoàng” và phụ thuộc trong các sinh
hoạt chùa chiền. Thực trạng càng xót xa hơn khi tuổi trẻ Phật tử tươi mát
và hồn nhiên bị thế hệ đàn anh lợi dụng. Trong những năm qua, không ít đơn
vị GĐPT đã bị giới đàn anh cầm đầu lèo lái và sử dụng vào những hoạt động
phi Phật giáo như chính trị, kinh tế, xã hội.
Nếu đi sâu vào chuyên môn,
không ai có thể chối bỏ được sự thật rằng, hoàn cảnh đã đổi thay, tri thức
tuổi trẻ hiện đại cùng lứa tuổi đã tăng lên nhiều lần so với tuổi trẻ thời
tiền chiến (1930-1945). Tâm lý tuổi trẻ của thời kỳ kinh tế thị trường và
văn hóa thế giới cũng đã chuyển đổi mãnh liệt: Độc lập, mạnh dạn, tích cực
và chủ động hơn xưa. Thế nhưng, trong sinh hoạt nội bộ của GĐPT, những
nguyên tắc và lề lối sinh hoạt “truyền thống” không thay đổi kịp với tốc độ
thực tế. Lề lối sinh hoạt có nơi, có chỗ đã quá lỗi thời, không còn thích
hợp cho nhu cầu tri thức và tâm lý thực tế của tuổi trẻ Phật tử muốn tinh
tấn tu học.
Xin đơn cử một số vấn đề tồn
tại tiêu biểu:
- Về Phật pháp: Chương trình
Phật pháp được các bậc huynh trưởng tiền phong soạn thảo hơn 50 năm qua mang
đậm tính quốc văn giáo khoa thư và ứng dụng phương pháp truyền thụ kiến thức
thụ động một chiều vẫn không có gì thay đổi, cập nhật.
- Về kinh sách: Chỉ nói đến
những nghi thức tụng niệm đơn giản dùng hằng ngày mà thôi thì cũng đã thiếu
sự thống nhất giữa các chùa và các đơn vị. Văn cổ học chữ Hán tối tăm khó
hiểu xen lẫn với văn thuần Việt dịch nghĩa chưa được hoàn thiện trong các
kinh sách hiện dùng là một vấn đề thiếu sót và cản trở nghiêm trọng trong
việc tu học. Thực tế là các bậc phụ huynh còn chưa hiểu nổi thì làm sao
tuổi trẻ – nhất là khi các em ở nước ngoài, nói tiếng nước ngoài – lại có đủ
sức để hiểu, để yêu mến và ham thích học Phật cho được.
- Về hoạt động thanh niên:
Nội dung lễ nhạc, các bài hát tập thể, các trò chơi sinh hoạt, các môn sinh
hoạt ngoài trời… vẫn chỉ mới ở mức độ tạm “sống còn”, chưa tạo ra được sự
sinh động và cuốn hút cho tuổi trẻ. Trong lúc đó, thế giới “games” muôn màu
muôn vẻ, điện thoại di động, vi tính truyền thông… đã lôi kéo nhiều tâm hồn
tuổi trẻ một thời gắn bó với GĐPT ra khỏi quỹ đạo của chùa chiền.
- Về mặt lãnh đạo và chỉ
đạo: Hiện trạng có tới 3 (hay nhiều hơn?) Ban Hướng dẫn GĐPT Trung Ương
GĐPT tại Hoa Kỳ đã làm cho nhiều người, kể cả chư tôn đức, các nhân vật
trong GĐPT, trong các đạo tràng và quần chúng… ngạc nhiên và hoang mang.
Biểu hiện thông thường là giới đàn anh ở tư thế lãnh đạo không hòa hợp được
với nhau, không giải quyết được những mâu thuẫn, xung đột, khác biệt nên
“chia tay” và kéo theo đàn em chia GĐPT thành nhưng đơn vị ly khai nhau theo
vùng, theo khuynh hướng… Sự phân hóa nầy đã làm cho hệ thống GĐPT Việt Nam
Hải ngoại chững lại và khó có thể phát huy được vai trò tích cực để mong làm
chiếc cầu kế thừa cho hai thế hệ Phật tử, già đang qua; và trẻ đang đến,
trong dòng chảy của Phật giáo Việt Nam tại Hải ngoại có sự tương tác cần
thiết.
Muốn xây dựng một chương
trình giáo dục GĐPT lành mạnh, có hiệu quả, cần phải vận động một cuộc chấn
chỉnh nội bộ GĐPT Việt Nam Hải ngoại càng sớm càng tốt. Nếu chưa có được
một giải pháp hóa giải cấp thời ổn thỏa và êm đẹp giữa các thành viên có
trách nhiệm đang ở vai trò lãnh đạo vả chỉ đạo, tại sao chúng ta không tạm
dùng phương thức “đa lưu chi” (nhiều nguồn nhánh) theo mô thức dân chủ pháp
trị đa nguyên của Mỹ. Nghĩa là các đơn vị GĐPT vẫn giữ nguyên vị trí của
mình như hiện nay, nhưng đại biểu của đơn vị có thể ngồi lại với nhau – như
các đảng Dân Chủ, Cộng Hoà và Độc Lập Mỹ – để hoạch định một đường lối giáo
dục chung, thích nghi cho GĐPT, tiến tới một khả năng chấn chỉnh toàn diện
và tốt đẹp phục vụ cho con đường giáo dục và tu học của thế hệ Phật tử đàn
em nói chung.
Một hình thức “Liên Hiệp Ban
Hướng Dẫn GĐPT Trung Ương…” trong lúc cấp thời nầy là một khả năng tích cực
có thể thực hiện được tương đối công bằng và hợp lý.
Ba mươi năm qua, Phật giáo và
GĐPT Việt Nam tại hải ngoại vẫn chưa qua khỏi giai đoạn “chuẩn bị” trong
việc xây dựng cơ sở vật chất và nề nếp sinh hoạt nên tác dụng hoằng dương
Phật Pháp chưa thâm nhập được vào xã hội phương Tây như Phật giáo Tây Tạng,
Đài Loan, Tích Lan, Nhật Bản.
Thế hệ huynh trưởng GĐPT có
tâm huyết và kinh nghiệm nay đều đã ngoài 60. Các anh chị không còn nhiều
thời gian để đắn đo và chở đợi một giải pháp “đèn thần” nào đó đến từ bên
ngoài. Sự nghiệp lớn nhất của người huynh trưởng GĐPT là sự truyền thừa một
giá trị cụ thể nào đó cho các em. Chúng ta chỉ còn lại một tấm lòng và một
sự hy sinh cần thiết để cởi bỏ những định kiến, mặc cảm, hiểu lầm hay chưa
hiểu hết… để ngồi lại với nhau.
V. Kết luận.
Tiêu đề cho khóa hội thảo
huynh trưởng Gia Đình Phật Tử Việt Nam tại Hoa Kỳ năm 2009 là GIÁO DỤC TRONG
GIA ĐÌNH PHẬT TỬ. Giáo dục là một vấn đề truyền thống ngỡ như quá quen
thuộc và xưa cũ; nhưng thật ra, cứ mỗi hình thái xã hội, văn hóa, thời đại
nào thì có một nền giáo dục tương ứng cho hoàn cảnh đó.
Sau gần 60 năm hoạt động,
GĐPTVN đang đứng trước nhiều vấn đề và nhiều thử thách mới. Nhưng 3 vấn đề
nổi bật, đòi hỏi giải pháp thức thời và khả thi là:
- Tình
trạng phân hóa nội bộ.
- Sự khác
biệt về văn hóa, xã hội, ngôn ngữ giữa hai hoàn cảnh quê nhà và quê người;
cũng như giữa hai thế già và trẻ tạo ra nhiều khó khăn, trở ngại.
- Khuynh
hướng chính trị và xã hội dị biệt đưa đến cách nhìn và cách hành xử khác
nhau.
- Thế hệ
huynh trưởng đàn anh thiếu chuẩn bị để trao truyền sự kế thừa cho thế hệ đàn
em.
Vai trò giáo dục thuần túy
không phải là chiếc đũa thần để giải quyết những vấn đề khó khăn vừa nêu
trên đây. Tuy nhiên, mọi sự thay đổi lâu dài và cơ bản của một hệ thống tổ
chức đoàn thể lớn như GĐPT phải bắt đầu từ giáo dục. Giáo dục đóng vai trò
gieo ý thức để chuyển hóa hành động.
Lịch sử sinh hoạt tập thể có
những quy luật đào thải riêng của nó. GĐPT tất nhiên không phải là một
ngoại lệ. Phương châm hành động của đạo Phật là “tự mình thắp đuốc lên mà
đi”. Nếu chịu khó quan sát thật kỹ và tìm hiểu với thế hệ trẻ đoàn sinh
GĐPT tại Hoa Kỳ thì hơn 80 phần trăm ngôn ngữ các em dùng với nhau là tiếng
Anh. Văn hóa Mỹ đậm nét trong suy nghĩ và tâm hồn các em hơn là Việt.
Thành phần huynh trưởng trẻ và năng nỗ nhất thì phải hết sức vất vả mới giữ
cho mình ở tư thế song ngữ (bi-lingual) và song văn hóa (bi-cultural) Việt
Mỹ. Thành phần huynh trưởng lớn tuổi ngày một hiếm chỉ còn đứng trong vai
trò cố vấn và chỉ đạo. Thế nhưng, trên “mặt trận” quyền lực thì chính
những vị cao niên nầy lại dày công vận động năng nỗ và sử dụng nhiều đòn
phép bất tịnh nhất. Tại sao hiện tượng nghịch lý nầy lại tồn tại trong hệ
thống GĐPT Việt Nam?
Vì tương lai của thế hệ đàn
em, với trí tuệ tam bảo, cầu mong định lực của chư tôn đức và thiện tâm của
chư vị có trách nhiệm đưa GĐPT vượt qua những trở ngại nhất thời. Cấp thời
trước mắt là xin quý huynh trưởng lãnh đạo, cố gắng bắt tay nhau chấn chỉnh
GĐPT, soạn thảo một chương trình giáo dục cho GĐPT trước khi quá muộn màng,
buộc phải buông tay trước quy luật đào thải tự nhiên không aì tránh khỏi.
Cựu
huynh trưởng
Nguyên Thọ Trần
Kiêm Đoàn
sachhiem.net