Được sinh ra làm người là may mắn,
được ăn được học là điều may mắn, được tiếp thu giáo lý Phật Đà với hạnh Từ Bi
làm nền tảng là điều may mắn, và hạnh phúc thay khi xã hội bên ngoài lúc người
ta sống không cần tình người, sẵn sàng bất chấp đạo đức để giành giật, chiếm
đoạt và hãm hại nhau để sống, thì những người em của tôi tại GĐPT TT, đã đem
niềm vui ( Từ ) đến với những hoàn cảnh khốn khó trong cuộc sống ( Bi), mặc dù
các em mới đi làm, có em còn ngồi trên ghế nhà trường, tiền bạc các em còn hạn
chế, nhưng ý tưởng làm một việc gì đó có ích cho mọi người, để các em cùng ngồi
lại với nhau, cùng góp sức và chút vật chất của riêng mình, cũng như đi vận
động người thân, bạn bè, đồng nghiệp đóng góp cho các đợt từ thiên giúp đồng
bào nghèo khó, trẻ mồ côi, người già, người tàn tật tại các trung tâm bảo trợ,
và các vùng sâu vùng xa là những hành động thể hiện tinh thần trách nhiệm của
các em trước cuộc sống, biết quan tâm đến mọi người, biết dành thời gian tiền
bạc cho những công việc có ích, giúp người giúp đời và cũng là giúp mình nhân
rộng tình thương, đó là tình người trong khó khăn thể hiện đạo lý “ lá lành đùm
lá rách “ và hơn cả là các em đã lớn hơn và trưởng thành hơn trong cuộc đời.
Thấy
mấy anh chị em bàn bạc, lên kế hoạch, rồi gọi điện, chạy đi từng nơi để vận
động, thấy các em chở về những bao gạo, thùng mì, những túi áo quần cũ, rồi thì
ngồi sắp xếp cho vào từng túi nhỏ mới thấy được sự vất vả và tinh thần của anh
chị em. Có những em nhỏ còn là học sinh sinh viên, nhưng khi biết hoạt động của
anh chị mình dù ở xa cũng chạy về đóng góp, có những người thân, bạn bè ,anh
chị em khác khi được vận động đã tích cực hưởng ứng, rồi giúp đỡ cho hoạt động
từ thiện cũng như giúp thuê xe, ủng hộ tiền xe, nước uống cho chuyến đi, đó là
những điều động viên và khích lệ anh chị em chúng tôi trong các hoạt động từ
thiện vừa qua và sắp tới, chúng tôi thành tâm cám ơn sự hỗ trợ, đóng góp tinh
thần cũng như tịnh tài của quý cô bác, quý đòng nghiệp, anh chị em, nguyện cầu
chư Phật ban Phước lành, an lạc đến quý vị, và cầu chúc quý vị có nhiều sức
khỏe, hạnh phúc và thành đạt trong cuộc sống.
Đây là đợt từ thiện thứ ba của nhóm (vào ngày
02/12/2012), đợt này nhóm đến phát quà tại 1 xã vùng sâu của huyện Định Quán
tỉnh Đồng Nai, nơi nhà cửa thưa thớt, cuộc sống bà con còn nghèo nàn, theo lời
Thầy Thích Nguyên Tấn, một vị sư tại địa phương thì bà con ở đây chuyên làm
nông, làm thuê là chính, nhiều hộ làm không đủ ăn, cái nghèo cái đói vẫn còn
bám theo dai dẳng, có nhiều hộ neo đơn, bệnh tật, bà con cần cái ăn là chính.
Nên đợt này nhóm từ thiện đã mang đến 60 phần quà ( mỗi phần gồm 10 kg gạo, 1
thùng mì gói và một túi nhỏ quần áo cũ ), đến địa phương nhò Thầy cùng với hội
Chữ Thập Đỏ xã, để trao tận tay cho bà con. Thấy được niềm vui trong ánh mắt
của bà con khi nhận quà, thấy những cụ già không bê nổi phần quà, nhận tiếng
nói cám ơn giọng run run xúc động của những người nhận quà mà thấy mình nhỏ bé
và cũng thấy những hoạt động này là cần thiết cho người dân và cũng cho chính
mình. Ngoài việc trao quà tận tay cho bà con, anh chị em còn giúp bà con bê quà
ra xe đạp để chở về, bác tài cũng giúp bà con buột quà vào xe. Cuối ngày khi về
đến TP, bác tài nói “lần sau đi gọi tui, tui chở cho, tui rất thích những hoạt
động như thế này, rất có ích” . Vâng những hoạt động này rất có ích cho người,
cho đời và cho mình.
Bê giúp em nào
Niềm vui của cụ cũng là của chúng con
chụp ảnh kỷ niệm với Thầy Tấn
Đi xe này vui lắm pà kon à !!
( hình được lấy từ Face của Ngọc - ai co hình hôm đó gửi cho anh nhé ! ) - Mục Đồng
Thứ Năm, 6 tháng 12, 2012
Suy ngẫm về chữ Nhẫn
Suy ngẫm về chữ Nhẫn
Tư
tưởng Nhẫn là kim chỉ nam trong phương pháp tu tập và định hướng hành
đạo của Phật tử, kể cả xuất gia và tại gia. Trong phạm vi bài viết này,
người viết chỉ đề cập đến chữ Nhẫn, ngõ hầu bạn đọc cùng suy ngẫm nhân
ngày Xuân mới.
Hàm ý của chữ Nhẫn
Chữ 忍 phiên âm Hán - Việt là Nhẫn, được cấu thành bởi bộ Tâm và bộ
Đao. Theo nghĩa thông thường, Nhẫn là sự nhịn, sự nín và là sự chịu
đựng. Với ý nghĩa này thì chữ Nhẫn đối trị lại sự nóng giận, oán thù và
sự vô minh. Như vậy, chữ Nhẫn ở đây bao hàm sự chịu đựng trước những
hoàn cảnh bất lợi khác nhau. Thấm nhuần ý nghĩa này thì mỗi con người
sẽ tự giác ngộ cho mình một phương pháp giải quyết hài hoà những vấn đề
phát sinh trong cuộc sống.
Muốn thấm nhuần và vận dụng được đạo của chữ Nhẫn, thì mỗi người
phải hành trì trên ba phương diện là: thân nhẫn, khẩu nhẫn và ý nhẫn.
Thân nhẫn là thực hành chữ Nhẫn trên phương diện hành động. Trong
cuộc sống mưu sinh của mỗi người luôn phải đối mặt với những thuận lợi
và khó khăn, thời cơ và thách thức, phát triển và suy thoái, khách quan
và chủ quan… Tất cả những yếu tố này luôn đan xen nhau và tồn tại trong
một chủ thể. Hiểu được ý nghĩa của thân nhẫn sẽ giúp cho mỗi người có
những việc làm phù hợp, kể cả có những lúc chấp nhận và hy sinh tạm
thời để có thể đạt được những thành tựu to lớn hơn.
Khẩu nhẫn là thực hành chữ Nhẫn trên phương diện lời nói. Chức vụ
càng lớn, vị trí càng cao trong xã hội, thì mỗi lời nói càng quan
trọng. Vậy nên, dân gian vẫn thường nói: “Lời nói không mất tiền mua,
lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau”.
Như vậy, người thực hành khẩu nhẫn là phải thận trọng khi phát ngôn,
nếu gặp phải những lời nói thêu dệt, nói không thật, lời nói hai chiều
của người khác, thì mỗi người cần chủ động bình tâm suy ngẫm để không
dẫn đến khẩu chiến trong công việc, trong cuộc sống hàng ngày. Bởi điều
này sẽ làm tổn hại đến sự an lạc trong tâm thức và đốt cháy trí tuệ có
trong mỗi người.
Ý nhẫn là thực hành chữ Nhẫn trên phương diện tư duy và nhận thức
của con người. Tư duy và nhận thức của con người luôn là những yếu tố
căn bản tạo nên sự thành bại của mỗi công việc. Nếu con người có trí
tuệ, có sự am hiểu tường tận mỗi việc làm và thận trọng trong giải
quyết, phân tích đúng nguyên nhân khách quan, chủ quan thì sẽ thành
công. Học đạo chữ Nhẫn
Chữ Nhẫn có công năng đối trị cái tham, cái sân hận và sự vô minh
dốt nát tiềm tàng trong mỗi con người. Đối với cá nhân, nếu mỗi chúng
ta hiểu đúng và thực hành đúng ý nghĩa của chữ Nhẫn, thì bản thân mỗi
người sẽ nhận được sự cảm mến của cộng sự xung quanh, lấy lời nói yêu
thương sẻ chia, chân thành làm cách ứng xử với mọi người, tác phong
nghiêm trang, uy đức được tôn kính.
Ở phương diện gia đình, mỗi thành viên trong gia đình biết kính trên
nhường dưới, gia đình hiếu thuận, luân lý đạo đức được tôn nghiêm, bổn
phận trách nhiệm của các thành viên gia đình được tôn vinh.
Đối với xã hội, hiểu và thực hành đúng chữ Nhẫn sẽ giúp cho xã hội
ngày một đoàn kết, hợp tác chia sẻ và hòa bình trên cơ sở lợi ích chung.
Năm 2011, những diễn biến khó lường của sự suy giảm nền kinh tế thế
giới đã và đang tác động nhiều chiều đến đời sống kinh tế - xã hội
trong nước, đến đời sống tâm lý của một bộ phận người dân. Để vượt qua
những khó khăn này, đòi hỏi sự nỗ lực của không chỉ các cấp quản lý, mà
cần sự hợp sức tận tâm, tận lực của đội ngũ doanh nhân đang trực tiếp
quản trị, lãnh đạo DN, nhằm sớm vực dậy nền kinh tế đất nước nói chung
và sự phát triển bền vững trở lại của các DN nói riêng.
Hiểu và hành trì chữ Nhẫn thành công, mỗi chúng ta sẽ biết cách vượt
qua được những thách thức và trở ngại hiện tại. Lý do là bởi chữ Nhẫn
hoá giải tường tận quy luật phát triển và suy giảm là một hiện tượng
mang tính khách quan, xuất phát trong nội tại của mỗi sự vật hiện
tượng, chứ không phải là ngoại lệ với nền kinh tế, kể cả TTCK.
Trong giáo lý nhà Phật, khi tiếp cận vấn đề này thường được gọi là
“sự vô thường” và vận hành theo quy luật Thành - Trụ - Hoại - Không.
Nói như vậy để mỗi chúng ta thấy rằng, sự vận động của nền kinh tế, của
vòng đời DN, của TTCK có những lúc nghịch, lúc thuận là hoàn toàn bình
thường. Như vậy, mỗi người cần có đức tin và kiên trì nhẫn nại để hành
trì chữ Nhẫn, nhằm tự tin giải quyết hiệu quả những khó khăn trở ngại. Đại đức Thích Minh Tiến
Bài thuốc Nam đơn giản trị cao huyết áp
Lương y cửa Phật "mách" bài thuốc nam đơn giản trị cao huyết áp hiệu quả
Đó
là bài thuốc nam do Thượng tọa, lương y Thích Tuệ Tâm (57 tuổi), trụ
trì chùa Pháp Luân, kiêm Giám đốc điều hành Trung tâm kế thừa - Ứng
dụng y học cổ truyền - Tuệ tĩnh Đường Liên Hoa (số 3, đường Lê Quý Đôn,
Tp Huế, tỉnh Thừa Thiên – Huế) dày công sưu tầm, bào chế.
Cao huyết áp trong y học được nhắc đến là căn bệnh thường gặp, nguyên
nhân khó xác định. Bệnh nhân mắc phải chứng cao huyết áp thường dễ bị
biến chứng dẫn đến tai biến mạch máu não, suy tim, suy thận.
Nguy hiểm hơn, cao huyết áp thường
không có triệu chứng rõ ràng nên người bệnh thậm chí không biết mình
đang mắc bệnh. Bởi vậy lâu nay căn bệnh này còn được gọi với cái tên là
“sát thủ thầm lặng”. Tuy nhiên, lương y Thích Tuệ Tâm cho hay người
bệnh có thể yên tâm tự điều trị bệnh cao huyết áp bằng những cây thuốc
nam cực kì giản đơn nhưng mang lại hiệu quả cao.
Theo lời vị sư thầy, bài thuốc nam trị
chứng cao huyết áp gồm 5 vị rau củ quả với liều lượng như sau: Rau cần
tây (1 cây), cà rốt (1 củ), cà chua chín vừa (1 quả), hành hương (3 củ)
và củ tỏi (7 tép). “Đem tất cả rửa sạch, dùng cối giã nát, sau đó hoà
thêm một cốc uống trà nước sôi nguội quậy đều rồi đem lọc lấy nước cốt
để uống. Cũng có thể cho những vị thực phẩm trên vào máy xay sinh tố để
xay nhuyễn. Ta dùng nước cốt chia uống hai lần trong ngày sau bữa ăn.
Do có vị tỏi nên nước cốt hơi nồng, ai chịu khó được có thể uống gộp
luôn một lần”, lương y Thích Tâm hướng dẫn.
Trong quá trình điều trị bệnh, cần phối
hợp nhịp nhàng giữa việc theo dõi huyết áp người bệnh và uống nước cốt
rau củ quả. Cho người bệnh uống thuốc đến khi nào huyết áp trở về mức
bình thường thì ngưng, bởi nếu uống tiếp huyết áp người bệnh sẽ tụt
xuống thấp.
Sư thầy cho hay thông thường người bệnh
chỉ cần uống nước cốt bào chế từ 5 loại rau quả trên trong khoảng thời
gian 5 - 7 ngày sẽ phát huy công dụng rõ rệt. Tất nhiên, vị lương y cửa
Phật không quên căn dặn người mắc chứng bệnh cao huyết áp nên tránh
thức ăn cay, nóng; hạn chế ăn dầu, mỡ; cũng như tuyệt đối không được sử
dụng chất kích thích như rượu, bia, thuốc lá.
Ngoài ra, để quá trình trị liệu đạt
hiệu quả cao, có thể kết hợp giữ uống thuốc nam với phương pháp tâm lý
trị liệu. “Người bị cao huyết áp không nên tức giận, nóng tính hoặc ưu
phiền quá mức mà phải giữ tinh thần luôn thoải mái, vui vẻ. Người xưa
vẫn thường nói một nụ cười bằng mười thang thuốc đó thôi”, ông vui vẻ
bật mí.
Lại nói về bài thuốc nam chữa bệnh cao
huyết áp, sư thầy trụ trì chùa Pháp Luân cho hay đã áp dụng bài thuốc
gần 30 năm nay và chữa khỏi cho hàng trăm bệnh nhân. Hiện ông rất muốn
phổ biến bài thuốc rộng rãi để mọi người đều có thể tự áp dụng trị bệnh
cho chính bản thân mình. Ưu điểm của bài thuốc như lời ông, không những
có khả năng ổn định huyết áp người bệnh trong lâu dài mà còn rất dễ bào
chế, dễ tìm kiếm, giá cả lại rẻ. Nguồn gốc bài thuốc trên được sư thầy
Tuệ Tâm bật mí tự mình sưu tầm trong sách y học cổ sau đó tìm tòi, bổ
sung thêm.
Hàng chục năm nay, cái tên Tuệ Tĩnh
Đường Liên Hoa luôn được biết đến là nơi khám chữa bệnh giúp đỡ người
nghèo nức tiếng xa gần. Hiện ở địa chỉ này có khoảng 40 lương y, bác
sĩ, y sĩ cùng tham gia khám bệnh giúp đỡ hàng trăm bệnh nhân mỗi ngày.
Đến Tuệ Tĩnh Đường Liên Hoa, người bệnh được khám bệnh, châm cứu miễn
phí.
Sư thầy, lương y Thích Tuệ Tâm
Riêng chi phí thuốc thang, sư thầy cho
biết tuỳ thuộc theo đối tượng mà trung tâm có chế đội miễn giảm khác
nhau. Đối với bệnh nhân nghèo, gia cảnh khó khăn không những được cấp
phát thuốc mà còn được hỗ trợ thêm chỗ ăn ở miễn phí. Ngoài ra mỗi năm
tập thể cán bộ tại Trung tâm đều thường xuyên tổ chức những đợt khám
chữa bệnh từ thiện lưu động về vùng sâu vùng xa.
Bộc bạch cơ duyên đến với nghề thuốc,
sư thầy giải thích rằng đó là nghiệp của mình, là “duyên trời định”.
Ông trải lòng: “Năm 21 tuổi tôi bắt đầu phát nguyện sẽ nghiên cứu thuốc
Đông y để chữa bệnh cứu người. May mắn hơn sau đó tôi được sư phụ vốn
là thầy lang nổi tiếng ở Huế truyền nghề nên mới có cơ hội trở thành
lương y như bây giờ”. Vừa tu hành, vừa tham gia chữa bệnh giúp đời,
chẳng mấy chốc “tiếng lành vang xa” và cũng từ đó người ta biết đến cái
tên Thích Tuệ Tâm là thầy thuốc hơn là một nhà sư.
Đến năm 1982, sư thầy Tuệ Tâm đã đứng
ra mở lớp châm cứu tại chùa Huyền Không (xã Hương Hồ, huyện Hương Trà)
như “cú đột phá” trong tâm nguyện giúp đời, giúp người của mình. Cũng
trong năm đó tổ chẩn trị y học cổ truyền gồm bảy thành viên do sư thầy
Tuệ Tâm đứng đầu được ra mắt. Đó chính là tiền thân của Trung tâm khám
chữa bệnh Tuệ tĩnh Đường Liên Hoa bây giờ.
Đáng khâm phục hơn, lương y này luôn đề
cao tinh thần sử dụng cây thuốc nam vào điều trị bệnh tật. Ông cho hay
hiện trung tâm sử dụng thuốc nam chiếm đến hơn 50% loại thuốc; chỉ
những trường hợp cấp cứu khẩn cấp mới áp dụng thuốc tây y.
Cũng như nhiều lương y khác, thầy Tuệ
Tâm nhìn nhận cây thuốc nam vốn chứa nhiều công dụng kì diệu nhưng đến
nay vẫn chưa được khám phá hết. Với tâm nguyện tiếp tục khám phá hết
giá trị thuốc nam, đã gần 30 năm nay vị trụ trì chùa Pháp Luân đứng ra
mở lớp bồi dưỡng kiến thức đông y, lớp giảng dạy Hán nôm đông y ngay
tại Trung tâm. “Cả hai lớp có khoảng 100 học viên theo học, hoàn toàn
miễn phí. Phần lớn học viên theo học là sinh viên các trường y dược,
các thầy thuốc đông y trên toàn tỉnh. Điều này chứng tỏ người Việt ta
vẫn còn rất quan tâm đến thuốc nam, đấy cũng là tâm nguyện lớn nhất đời
tôi”, sư thầy, lương y Thích Tuệ Tâm trải lòng.
Theo các chuyên gia, người bị bệnh cao huyết áp nên chú ý các nguyên tắc trong sinh hoạt sau:- Chú ý phòng lạnh giữ ấm, tránh gió lạnh. - Hạn chế lượng muối nạp vào cơ
thể, mỗi ngày không nên ăn quá 6g. Nên ăn những thực phẩm giàu dinh
dưỡng như thịt nạc, gà, cá, sữa và thực phẩm từ đậu. Hạn chế ăn dầu, mỡ
và giữ cho đại tiện thông suốt. - Thường xuyên tập luyện thể dục thể thao, nâng cao khả năng chống lạnh. - Biết cách khống chế, làm chủ
tâm trạng, cảm xúc. Tránh để thể lực và tinh thần rơi vào tình trạng
quá mệt mỏi. Tức giận, lo lắng cực độ đều không tốt. - Kiên trì uống thuốc, duy trì huyết áp ổn định. Tuy nhiên không nên tuỳ tiện uống thuốc giảm huyết áp hoặc ngưng uống thuốc đột ngột.
Theo Văn Mai - PLVN
Thuốc Nam trị bệnh gút hiệu quả
Kinh
nghiệm nhiều năm gắn bó với nghiệp y dược đã giúp lương y Lê Hữu Chí
(45 tuổi, ngụ phường Phú Hoà, thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên - Huế) bào
chế thành công bài thuốc chữa trị dứt điểm bệnh gút mãn tính. Vị lương
y cho biết bài thuốc chữa trị bệnh gút được bào chế từ 12 loại thảo
dược trong dân gian.
Bài thuốc “nghèo” trị dứt “bệnh nhà giàu”
Gọi là bài thuốc “nghèo” bởi thuốc được
bào chế hoàn toàn từ những cây thảo dược rất dễ kiếm trong vườn tược,
đồi núi, thậm chí ngay bên vỉa hè lề đường. Hơn nữa giá thành mỗi thang
thuốc chỉ từ 15 đến 20 nghìn đồng. Lương y Chí trình bày bài thuốc chữa
trị bệnh gút mãn tính gồm 12 loại thảo dược có tên sau: Cam thảo đất,
táo mèo, vỏ bưởi, hạt chuối sứ, củ ráy tía, củ sơn thục, củ khúc khắc,
lá lốt, dây tơ hồng, cà gai leo, củ tỏi đỏ và cây bồ công anh.
Tác dụng chung của những vị thuốc này
theo lời thầy Chí là chống viêm và bài trừ thấp khớp. Ngoài ra thuốc
còn có chức năng bồi bổ khí huyết, từ đó sản sinh ra hoạt chất bôi trơn
các khớp xương, giúp cơ thể vận động thoải mái, dễ dàng. “Người bị gút
biểu hiện rõ nhất ở việc đau các khớp chân, tay. Chính vì vậy công dụng
cơ bản của bài thuốc chính là kháng viêm khớp, giúp lợi gân cốt”, ông
Chí giải thích.
Cách thức sử dụng bài thuốc được ông
Chí hướng dẫn cực kì đơn giản là đem phơi khô rồi sắc lấy nước uống,
liều lượng mỗi vị 8 gam, mỗi ngày sắc một thang và uống đều sau bữa ăn.
“Sắc một lít nước, đến khi còn lại nửa lít là được, hoặc đổ vào 3 chén
nước lấy lại hơn một chén để uống. Ngoài ra có thể xay mịn thuốc rồi
cho vào ấm chế nước uống như pha trà. Mỗi ngày uống từ 3 - 4 ấm là tốt
nhất”, ông hướng dẫn thêm.
Cũng theo lời thầy thuốc này, thuốc nam
cho tác dụng từ từ chứ không thể “uống ngày trước, ngày sau lành bệnh”
nên đòi hỏi bệnh nhân phải kiên trì điều trị. Với kinh nghiệm nhiều năm
chữa trị bệnh gút bằng thuốc nam, ông Chí cho biết thông thường bệnh
nhân uống thuốc trong vòng 1 - 2 tháng sẽ cho kết quả khả quan như vận
động chân tay ít đau, khớp xương không bị sưng tấy.
Điều cần lưu ý đối với bệnh nhân điều
trị gút là tuyệt đối kiêng tránh những thức ăn như thịt chó (thịt cầy),
đồ hải sản, thịt đỏ (như thịt bò) và nội tạng động vật bởi những thực
phẩm này chứa hàm lượng đạm cao, gây nguy cơ mắc bệnh. Thay vào đó
người bệnh nên ăn nhiều rau quả, tăng cường uống nước và vận động nhẹ
tuỳ theo sức khoẻ bản thân để khí huyết lưu thông đều đặn.
Ông Chí đang chữa trị cho một bệnh nhân mắc bệnh gút
“Nếu có điều kiện người bệnh có thể kết
hợp thêm điều trị bằng phương thức châm cứu, mát xa các huyệt đạo bởi
các phương pháp hỗ trợ này sẽ có tác dụng điều chỉnh khí huyết, bổ
huyết, từ đó ắt bệnh tật sẽ tự nhiên mà thuyên giảm”, lời lương y Chí
căn dặn bệnh nhân.
Nói về ưu điểm của phương pháp chữa trị
“bệnh nhà giàu” bằng bài thuốc nam, lương y Chí khẳng định thuốc hoàn
toàn không cho tác dụng phụ, hiệu quả chữa trị tuy “chậm mà chắc”. Đó
là chưa kể đến lợi ích kinh tế bởi không phải ai đều có đủ điều kiện
mua các loại thuốc Tây y vốn rất đắt đỏ.
Vị lương y xứ Huế thậm chí còn khẳng
định bất kể bệnh nào đều có thể tự tìm thuốc để sắc uống chứ không nhất
quyết phải tìm đến bác sĩ. “Đây toàn là những loại thảo dược dễ tìm ở
nước ta, cách thức bào chế cũng hết sức đơn giản”, ông mở lòng chia sẻ.
Ba năm mày mò tự chế bài thuốc
Kể về nguồn gốc bài thuốc nam chữa trị
bệnh gút, lương y Lê Hữu Chí “bật mí” cách đây khoảng 10 năm, trong quá
trình chữa trị cho bệnh nhân bị thấp khớp, ông mới biết nhiều người
không phải đau khớp thông thường mà bị gút. Ở thời điểm đó nhiều người
mắc bệnh gút nên căn bệnh này trở thành đề tài nóng hổi, thu hút sự
quan tâm của nhiều người. Nghĩ vậy nên ông quyết tâm tìm tòi bằng được
bài thuốc nam chữa trị căn bệnh được mệnh danh là “bệnh nhà giàu”.
Trong Đông y bệnh gút được xác định do
hai nguyên nhân chủ yếu: Ngoại nhân và nội nhân. Ngoại nhân tức cơ thể
bị những luồng tà khí thâm nhập dẫn đến phong hàn, tê thấp, kinh mạch
tắc nghẽn. Còn nội nhân hay còn gọi “thất tình nội thương”, xuất phát
từ chế độ ăn uống thiếu khoa học hay ức chế tinh thần kéo dài khiến
thân thể lâm bệnh. Đặc biệt bệnh gút nếu không được chữa trị kịp thời,
không những khiến người bệnh khó vận động mà còn kéo theo nhiều hệ luỵ
bệnh tật khác như: Dị dạng khớp xương, suy thận, bị sạn thận.
Một số vị thuốc nam có tác dụng điều trị bệnh gút
Nghiền ngẫm nhiều cuốn sách, hỏi ý kiến
nhiều lương y khác, sau khoảng 3 năm thử nghiệm, ông đã tự chế ra bài
thuốc trên. Thuyết phục về tính hiệu quả của bài thuốc nam, thầy thuốc
Đông y cho biết đã đưa vào áp dụng bài thuốc hơn sáu năm nay và thu
được kết quả khả quan. Ông nói: “Hàng trăm bệnh nhân gút đã được chữa
trị bằng bài thuốc nam gồm 12 vị thảo dược trên. Thực tế nhiều trường
hợp mắc chứng gút mãn tính đã khỏi hẳn bệnh sau một thời gian kiên trì
uống thuốc”.
Anh Lương Văn Cầu (ngụ phường Phú
Thuận, thành phố Huế), là bệnh nhân hiện đang điều trị bệnh gút bằng
bài thuốc nêu trên chia sẻ: “Tuy mới uống thuốc vài tuần nhưng tôi cảm
thấy cơ thể đỡ đau đớn hơn nhiều. Bây giờ tôi có thể cử động chân tay
mà không đau nhói như trước đây. So với uống thuốc tây, thuốc nam vừa
rẻ lại không gây cảm giác mất ăn, mất ngủ”.
Tâm sự chuyện nghề, lương y Chí cho
biết rất lấy làm vui mừng bởi sau hai thập kỉ theo nghề y, bài thuốc
chữa gút chính là thành quả lớn nhất đời mình. Ông trải lòng chính nhờ
lòng yêu nghề đã giúp bản thân nghiên cứu, bào chế thành công bài thuốc
nam nêu trên. Càng khâm phục hơn khi ông sẵn lòng chia sẻ bài quý cho
tất cả những ai có nhu cầu mà không chút vụ lợi tơ hào. Quan niệm nghề
của ông khá đơn giản: “Sống là cho chứ đâu chỉ nhận. Cứu một mạng người
hơn xây toà tháp”.
Gút (Gout) là một bệnh lý rối
loạn chuyển hoá chất purin làm tăng lượng Acid uric trong máu dẫn đến ứ
đọng tinh thể muối Urát tại khớp gây viêm khớp. Biểu hiện lâm sàng đặc
trưng của người bị mắc gút là sưng tấy, nóng, đỏ, đau dữ dội tại một
hay nhiều khớp. Tỉ lệ mắc bệnh gút ở nam giới cao hơn nữ giới. Việc
uống nhiều bia rượu cũng là nguyên nhân làm tăng nguy cơ mắc bệnh. Để
phòng tránh bệnh gút nên giảm cân, uống nhiều nước. Một trong những
phương pháp điều trị gút phổ biến hiện nay là kết hợp giữa y học cổ
truyền và y học hiện đại.
Quảng Thiên - PLVN
Thứ Tư, 5 tháng 12, 2012
Cách nhận ra tôn tượng Phật Thích Ca và A Di Đà
(Kienthuc.net.vn)
- Trong các chùa hiện nay thường thờ các tôn tượng Phật Thích Ca và
Phật A Di Đà bên cạnh các vị Bồ Tát, A La Hán… Tuy nhiên rất nhiều
người vẫn không phân biệt được đâu là Tôn tượng A Di Đà, đâu là Phật
Thích Ca.
Nhiều người không phân biệt được đâu là Tôn tượng Phật Thích Ca, đâu là A Di Đà
Nói
về điều này, thầy Thích Phước Thái cho rằng: việc phân biệt sự khác
biệt giữa hai tôn tượng Phật Thích Ca và Phật A Di Đà qua một vài đặc
điểm của biểu tướng như sau:
Phật
Thích Ca thường trong các chùa Phật giáo Bắc Tông (Đại Thừa) đều thờ
Ngài ở chính giữa chánh điện. Nên gọi Ngài là đấng Trung Tôn vì Ngài là
vị Giáo chủ cõi Ta bà nầy.
Hình
tượng Ngài không nhất thiết phải giống người Ấn Độ, vì theo quan niệm
Phật giáo Bắc tông, nhất là Thiền tông cho rằng, mỗi người đều có ông
Phật (Phật tánh) nên người nước nào tạc tượng giống người nước đó.
Từ
nét mặt cho đến hình tướng nên hình tượng thờ trong các chùa không nhất
thiết phải giống nhau. Đó là xét trên đại thể, còn các chi tiết thì
tương đối giống nhau.
Tôn
tượng đức Thich Ca Mầu-Ni được thờ ở giữa, bên tả là tượng Ca-Diếp
Tôn-Giả, bên hữu là tượng A-Nan-Đà tôn giả, là hai đại đệ tử của Đức
Thích-Ca khi ngài còn ở thế-gian
Nhiều chùa còn thờ cả tôn tượng Phật Thích Ca nhập diệt và sơ sinh
Như
ngồi trên tòa sen, hai bàn tay bắt ấn Tam muội, nhục kế trên đỉnh đầu,
đôi mắt mở ba phần tư, và mặc ca sa (y)… Đó là một vài nét biểu tướng
của Phật Thích Ca. Ngoài ra, các chùa còn có thờ tôn tượng Đức Phật
Thích Ca sơ sinh tay chỉ thiên tay chỉ địa.
Còn
về phía Tôn tượng đức Phật Di Đà, thông thường, có hai tượng mà chúng
ta thường thấy: tượng Ngài ngồi kiết già trên tòa sen, tay kiết định
ấn, tương tự Phật Thích Ca và tượng đứng trên hoa sen lơ lửng trong hư
không, bên dưới là bể cả sóng nổi lên rất cao, mắt Ngài nhìn xuống, tay
trái bắt ấn cam lồ và đưa lên ngang vai, tay mặt duỗi xuống như sẵn
sàng chờ đợi cứu vớt những chúng sanh đang đắm chìm trong bể khổ. Tượng
nầy gọi là tượng Di Đà phóng quang.
Về
tượng đứng, thường bên cạnh Ngài có hai vị đại Bồ tát Quán Âm và Thế
Chí. Bồ tát Quán Âm thì đứng bên tay trái và Bồ tát Thế Chí đứng bên
tay phải của Ngài. Đây gọi là tượng Tam Thánh.
Phật A Di Đà ngồi
Phật A Di Đà đứng
Nhiều khi Tôn tượng A Di Đà còn được thờ bên hai vị đại Bồ tát Quán Âm và Thế Chí gọi là tượng Tam Thánh
Về
tượng nầy, thì rất dễ phân biệt khác với tượng Phật Thích Ca. Còn về
tượng ngồi, ta nên lưu ý sự khác biệt giữa hai tôn tượng như sau: Tượng
Phật Thích Ca không bao giờ duỗi một cánh tay.
Tượng
Phật Thích Ca thường đắp y choàng qua cổ không có đắp y khoát vuông để
trống trước ngực có chữ vạn. Ngược lại, tượng Phật Di Đà có đôi khi
người ta tạc tượng Ngài ngồi tư thế kiết già và duỗi xoè bàn tay mặt. Y
khoát cổ vuông và trước ngực có chữ vạn. Đó là hai nét chính khác với
tượng Phật Thích Ca.
chùa thờ tôn tượng đức Thich Ca Mầu-Ni ngồi cầm hoa-sen
Ngoài
ra có nhiều chùa làm tôn tượng đức Thich Ca Mầu-Ni ngồi cầm hoa-sen,
như khi ngài thuyết pháp ở Linh-Thứu-Sơn; bên tả là tượng Ca-Diếp
Tôn-Giả, vẻ mặt già, bên hữu là tượng A-Nan-Đà tôn giả, vẻ măt trẻ, là
hai đại đệ tử của Đức Thích-Ca khi ngài còn ở thế-gian. Tượng hai vị
tôn giả ấy đều tạc đứng, hình dáng hai người tỳ khưu.
Hoài Lương (ghi lại)
Hiểu đúng về giá trị của việc đi chùa lễ Phật
Vào
mồng một, ngày rằm hàng tháng, vào những dịp lễ, Tết có rất nhiều người
đi chùa lễ Phật. Đó là một phong tục đẹp. Tuy nhiên, bên cạnh những
người đến chùa với đúng nghĩa lễ Phật, học Chánh pháp, hành thiện tích
đức thì cũng không ít người đến chốn cửa thiền làm những điều trái giáo
lý nhà Phật, ngược với thuần phong mỹ tục. Sự thiếu hiểu biết về đạo
Phật đang làm méo mó, biến dạng các lễ hội gắn với chùa chiền. Do vậy,
để hoạt động tín ngưỡng diễn ra đúng với bản chất, góp phần tiết kiệm
thời gian, tiền bạc, bài trừ mê tín dị đoan thì cần có cái nhìn đúng
đắn về chùa chiền và giáo lý đạo Phật.
Chùa
chiền là cơ sở tu học và truyền bá giáo pháp. Ở một khía cạnh nào đó,
có thể nói chùa là một ngôi trường dạy về đạo Phật, là nơi gìn giữ và
truyền bá tư tưởng của Đức Phật thông qua hoạt động truyền pháp.
Vậy
đến chùa để làm gì? Thứ nhất, đối với những người có hiểu biết về Phật
giáo, tự nguyện phát tâm hướng Phật, thì đến chùa trước hết là lễ Phật.
Lễ Phật không vì van xin tha tội, không vì cầu mong ban ân, mà chỉ vì
quý kính công đức, trí tuệ của Phật. Khi lễ Phật, người làm lễ cúi lạy
Phật để thấy mình còn thấp kém, còn nhiều dục vọng, tham lam… mà sửa
đổi. Sau lễ Phật là tham gia tụng niệm, học hỏi Chánh pháp, tập tu đức
hạnh. Phật giáo với tám vạn bốn nghìn pháp môn nên không thể một một
sớm một chiều mà lĩnh hội được. Do vậy phải thường xuyên tới lui cửa
thiền để học tập. Trong trường hợp này, hễ có thời gian thì người ta đi
chùa, không cứ phải ngày lễ, ngày Tết.
Thứ
hai, những người không vì tĩnh tâm hay hỏi đạo mà vẫn đi chùa. Đây là
trường hợp vì mưu sinh, đua chen trong cuộc sống thần kinh bị căng
thẳng, nên tìm đến thiền môn. Khung cảnh tịch mịch của ngôi chùa khiến
tâm hồn lắng xuống, thần kinh dịu lại. Không cần gặp ai, chẳng màng học
hỏi, chỉ cần ngắm cảnh thanh nhàn u tịch, hít căng lồng ngực không khí
trong lành dịu nhẹ hương hoa hay ngồi đặt lưng tựa bên vách chùa, cảm
nghe lòng nhẹ nhàng khoan khoái… những giây phút đó gánh nợ đời oằn oại
đôi vai như vơi nhẹ đi.
Đức
Phật là một bậc Giác ngộ, một nhà tư tưởng, không phải là một vị thần
có nhiều quyền năng để có thể ban phúc, hay giáng họa cho bất kỳ ai.
Phật chỉ dạy chúng ta về nhân quả, nghĩa là các hành động qua thân,
miệng và ý của con người tạo ra. Con người tạo nhân tốt lành thì quả
tốt lành nhất định đến.
Từ
những vấn đề trên, chúng ta thấy các hành động như: chen chúc, giẫm đạp
để giành giật nhau đồ lễ; cúng đồ lễ gồm quá nhiều tiền âm phủ, vàng
mã, đồ ăn mặn; quăng tiền thật bừa bãi ở gốc cây, tượng Phật, thú đá;
xếp hàng rồng rắn, sắm lễ vật tiền triệu để cầu an, giải hạn… thật
chẳng mấy ý nghĩa và lãng phí vô cùng.
Đến
cửa chùa phải tâm lành, ý thiện. Cúi đầu lạy Phật là đã tự nhận mình
còn nhiều tham, sân, si và có ý hối hận, muốn tu tỉnh. Vậy cầu tài, cầu
lộc, cầu danh vọng phải chăng là những điều xa lạ trước thiền môn?
Đất
nước trong giai đoạn phát triển. Tuy nhiên, mở cửa, hội nhập, mặt trái
kinh tế thị trường không khỏi làm cho một bộ phận nhân dân bị ảnh
hưởng. Tệ nạn xã hội có chiều hướng gia tăng. Kỷ cương xã hội có lúc,
có nơi bị buông lỏng. Tham nhũng, cửa quyền của một bộ phận cán bộ đang
làm cho xã hội nhức nhối, bức xúc… Tuy nhiên không phải vì thế mà chúng
ta đánh mất niềm tin vào thực tại, phải đổ xô tìm kiếm ở một thế giới
ảo, siêu thực.
Đến
chùa không thể xin được sự bình an, hạnh phúc. Muốn bình an, chúng ta
phải biết rõ giá trị cuộc sống, biết rõ vị trí của mình trong xã hội.
Thường ngày sống, làm việc phải theo hiến pháp, pháp luật, đúng đạo lý.
Muốn ấm no, hạnh phúc không có gì khác ngoài việc phải làm việc, lao
động chân chính. Mọi tư tưởng sống gấp, sống hưởng thụ, lười lao động,
thiếu tu dưỡng đạo đức đều dẫn đến bất hạnh không cần phải do thần linh
hay số phận an bài.
Tự
do tín ngưỡng là một quyền của công dân được Nhà nước bảo vệ. Tuy nhiên
người dân cũng cần phải trang bị cho mình kiến thức về tôn giáo mà mình
tín ngưỡng. Có như vậy mới không rơi vào mê tín dị đoan. Hiểu và trân
trọng các giá trị văn hóa của việc đi chùa lễ Phật góp phần nâng tầm
văn hóa, giá trị của các lễ hội gắn với chùa chiền. Đó cũng là cách mà
mỗi người dân Việt Nam giữ gìn và phát huy nền văn hóa đặc sắc, đa dạng
của mình trong xu thế hội nhập hiện nay.
Theo Giacngo
Đạo Phật có phải là một tôn Giáo?
Tạp chí Xưa & Nay Số 415 tháng 11/2012
YẾU TỐ NIỀM TIN VÀO THỰC THỂ
TÂM LINH(TYLOR 1871) HAY CÁC YẾU TỐ GIÁO HỘI VÀ GIÁO LÝ (ĐẶNG NGHIÊM
VẠN 2001) TRONG ĐỊNH NGHĨA VỀ TÔN GIÁO LẠI DƯỜNG NHƯ KHÔNG PHẢI LÀ
NHỮNG YẾU TỐ QUAN TRỌNG ĐỐI VỚI PHẬT GIÁO. KHÔNG CHỈ LÀ TƯ LIỆU THỰC
ĐỊA GÓP PHẦN XEM XÉT LẠI CÁC ĐỊNH NGHĨA VỀ TÔN GIÁO CỦA PHƯƠNG TÂY CHỊU
ẢNH HƯỞNG CỦA TRUYỀN THỐNG NGHIÊN CỨU KITÔ GIÁO, THỰC HÀNH PHẬT GIÁO
CÒN GÓP PHẦN ĐƯA RA MỘT CÁCH NHÌN MỚI TRONG ĐỊNH NGHĨA VỀ TÔN GIÁO
(KEYES 2006) (1). XƯA NAY XIN GIỚI THIỆU BÀI VIẾT CỦA MỘT
NGƯỜI TRONG CUỘC VỀ VẤN ĐỀ NÀY. THƯỢNG TOẠ THÍCH HUỆ ĐĂNG HIỆN LÀ ỦY
VIÊN BAN HOẰNG PHÁP TRUNG ƯƠNG VÀ LÀ GIẢNG VIÊN HỌC VIỆN PHẬT GIÁO HÀ
NỘI.
Câu
hỏi này ở đầu cửa miệng của nhiều người, nhất là nhửng người Mác xít mà
tôi được quen biết. Tôi nghĩ rằng câu trả lời có hay không, phải hay
không phải, tuỳ thuộc vào vấn đề chúng ta hiểu từ ngữ “tôn giáo”, một
từ ngữ gốc Phương Tây (religion), như thế nào?
Nếu định nghĩa tôn giáo, tức
đạo, là con đường dẫn tới chân lý và giác ngộ và giải thoát, thì đạo
Phật một đạo giác ngộ và giải thoát đúng là một tôn giáo. Vì bản thân
Phật pháp đã từng được đức Phật ví như cái bè dùng để qua sông, hay
ngón tay chỉ mặt trăng, nghĩa là như một phương tiện, chứ không phải là
một cứu cánh, thì đạo Phật đúng là một tôn giáo như vậy. Khác với giáo
chủ của các tôn giáo khác, Đức Phật không bao giờ tự gán cho mình quy
chế Thượng đế, con Thượng đế, hay là phái viên của Thượng đế. Phật tự
xem mình là “vị thầy chỉ bày con đường” (Margadata), tức là con đường Bát chánh đạo đã dẫn tới giác ngộ và giải thoát, con đường đoạn trừ mọi khổ đau. Đạo
Phật xa lạ với mọi ý niệm vê một Thượng Đế cá nhân đẩy quyền năng vô
hạn. Đức Phật đến với loài người như một Con Người giản dị nhưng hoàn
thiện, một con người đã được giác ngộ và giải thoát, và chỉ bày cho con
người con đường giác ngộ và giải thoát. Cũng vì đức Phật không tự cho
mình một quy chế Thượng đế hay một thần linh tôi thượng, cho nên các
tôn giáo thần quyền thường đánh giá đạo Phật là đạo vô thần (atheistic).
Phật thường khuyên bảo học trò không nên tin lời Phật vì lòng kính
trọng đối với Ngài, mà vì lời dạy của Phật đúng đắn, dẫn con người đến
giác ngộ và giải thoát. Lời dạy của Phật không được xem như giáo điều,
tuyệt đối phải tin tưởng. Lời dạy của Phật phải được chúng ta kiểm
nghiệm qua cuộc sông thực tiễn như là người thợ vàng thử vàng vậy. Phật
thường dạy học trò rằng một điều dù đúng hay sai không phải là do quyền
uy của vị đạo sư nói ra, hay được ghi trong sách thánh như là thần
khải. Đối với Phật, quyền uy và thần khải không phải là tiêu chuẩn của
chân lý. Đối với đạo Phật tiêu chuẩn của chân lý là lý trí và sự kiểm
nghiệm của cuộc sống. Khẳng định như vậy để nói rằng đạo Phật không
phải là một tôn giáo, nếu tôn giáo nghĩa là chấp nhận giáo điều, là tự
biện thần học, gọi là để tìm ra chân lý trong từng câu từng chữ của
sách thánh, là niềm lo sợ đối với cái thiêng liêng và siêu nhiên, là sự
gửi gắm cả cuộc đời mình cho thần linh hay Thượng đế… Nếu tôn giáo là
như vậy, thì đạo Phật sẽ không Phải là tôn giáo, mà đúng hơn là một hệ
thông triết lý và đạo đức dẫn con người tới cái Chân, cái Thiện, cái Mỹ. Nhưng nếu tôn giáo là một cái
gì đó tạo cảm hứng cho con người hướng tới một cuộc sống tốt đẹp nhất,
cao cả nhất, thúc đẩy con người tự hoàn thiện mình bằng một nỗ lực đạo
đức không ngừng, nếu tôn giáo nâng bổng con người, vượt lên những nhu
cầu vật chất tầm thường của cuộc sống, thì đạo Phật là tôn giáo như
vậy. Mà lạ lùng thay, một tôn giáo như đạo Phật, không công nhận có
linh hồn bất tử, cũng không công nhận có thượng đế tạo thế, ấy thế mà
từ khi ra đời ở Ấn Độ cách đây hơn 2.500 năm, nó đã làm chấn động tận
gốc rễ xã hội đẳng cấp lâu đời, buộc tất cả mọi tôn giáo và triết phái
truyền thông phải xét lại cơ sở giáo lý của mình. Và sau khi nó vượt
qua biên giới, nó trở thành một tôn giáo thế giới, nó đã chinh phục
trái tim và khối óc của hàng triệu người. Ngày nay cũng vậy trong khi
các tôn giáo truyền thông và thần quyền đang chịu đựng những thử thách
lớn, đối diện với tiến bộ của khoa học như vũ bão, thì đạo Phật vẫn
đứng vững như bàn thạch. Đạo Phật mở con đường du nhập của mình vào
ngay trong lòng những nước đứng đầu trên thế giới về khoa học và công
nghệ, như Mỹ, Anh, Pháp, Đức,… Không phải vì là Phật tử mà
chúng ta ca ngợi đạo Phật. Chính các nhà khoa học lớn, có tiếng tăm ca
ngợi đạo Phật. Có thể trích ra đây lời nhận xét của nhà bác học Albert
Einstein đối với đạo Phật: “Tôn giáo trong tương lai sẽ là một tôn giáo
vũ trụ, nó phải siêu việt hơn một Thượng đế cá nhân, tránh giáo điều và
thần học; bao quát cả hai mặt tự nhiên và tâm linh. Nó phải dựa trên
một ý thức tôn giáo nảy sinh từ sự thực nghiệm của mọi sự vật, tự nhiên
và tâm linh, được quan niệm như một thể thống nhất có ý nghĩa. Phật
giáo đáp ứng một mô tả như vậy. Nếu có một tôn giáo thỏa mãn được yêu
cầu của khoa học hiện đại, thì tôn giáo đó là đạo Phật”(2).
Để chứng minh nhận xét của tôi về sự thành công của đạo Phật tại các
nước công nghiệp phương Tây, cho phép tôi đưa ra một trích dẫn nữa, lần
này là của một nhà nghiên cứu tôn giáo người Pháp trong một bài đăng
trong một đặc san nghiên cứu các tôn giáo của tờ Thế giới ngoại giao
số tháng 11 và 12/1999: “Phật giáo chủ yếu là tôn giáo hiện đại: dành
cho cá nhân, không giáo điều đạo đức, kết hợp thân với tâm. Phật giáo
có tất cả cơ may để phát triển ở phương Tây, vì nó không đề xuất một sự
cứu rỗi, xuất phát từ một thần linh bên ngoài, mà là một phương pháp
thực tiễn để thoát khỏi đau khổ và đạt tới hạnh phúc, ngay tại thế giới
này”(3). Phật giáo không có một tổ chức
tăng đoàn chặt chẽ, theo kiểu các tôn giáo thần quyền phương Tây. Vì
sao? Vì tinh thần dân chủ và bình đẳng trong đạo Phật không cho phép có
một tổ chức chặt chẽ như vậy. Không phải trong thòi kỳ Phật giáo bộ
phái ở Ấn Độ, mà ngay cả ở Trung Hoa, Nhật Bản, tổ chức Phật giáo vẫn
bao gồm nhiều giáo phái và hệ phái khác nhau, với những chùa chiền, tu
viện, và thiết chế giáo dục, của riêng các giáo phái và hệ phái đó. Ở
Việt Nam tuy có một giáo hội Phật giáo Việt Nam được thành lập năm
1981, thế nhưng hiến chương của giáo hội tôn trọng sự tồn tại trong
phạm vi giáo hội của những giáo phái và hệ phái khác nhau, như Phật
giáo Nam tông, hệ phái Khất sĩ, Phật giáo Khơ-me,… Ngày xưa, khi Thiên Chúa giáo mới bắt đầu vào nước ta, có sự phân biệt đồng bào giáo và lương.
Đồng bào giáo chỉ cho tất cả đồng bào theo tôn giáo mới, tức Thiên Chúa
giáo, còn đồng bào lương chỉ cho tất cả đồng bào theo các đạo Phật,
Nho, Lão hay bất cứ một tín ngưỡng bản địa nào khác. Vì sao vậy? Phải
chăng người Việt Nam cũng như người Á Đông nói chung không có một quan niệm về tồn giáo chặt chẽ về mặt tổ chức
như đạo Thiên chúa. Một người Trung Hoa, Nhật Bản hay người Việt Nam có
thể theo cả ba đạo Phật, Nho, Lão và cả đạo ông bà nữa mà trong lương
tâm họ không bị chi phối về mặt tâm lý bởi những bài thuyết giảng kiểu
như những bài thuyết giảng của các bậc tiên tri đạo Do Thái. Những bài
thuyết giảng này chống lại mọi biểu hiện của tà giáo và tà đạo, khi các
bộ tộc Do Thái từ kiểu sống du mục chuyển thành những bộ tộc định cư và
sản xuất nông nghiệp, sau khi vương quốc Israen đầu tiên được thành
lập, với các vua David, rồi Solomon, như đã được ghi chép trong sách Cựu ước. Người Á Đông dù là ở Ấn Độ,
Trung Hoa, Nhật Bản hay Việt Nam, chấp nhận tín ngưỡng đa thần giáo một
cách tự nhiên, thông thoáng, có thể vì vậy mà họ cũng không có tư tưởng
kỳ thị tôn giáo. Tôn giáo nào cũng cung cấp một câu trả lời mà tín đồ
tin là thỏa đáng đối với ý nghĩa của nhân sinh, của cuộc sống. Niềm tin
của tín đồ có thể nông hay sâu, liên tục hay ngắt quãng, nhưng niềm tin
đó phải có, thì mới có tôn giáo, bởi lẽ niềm tin tôn giáo là động lực
khiến tín đồ sống cả đời theo niềm tin đó. Điều đặc sắc của đạo Phật là
sự kết hợp niềm tin với lý trí hay trí tuệ,
hiểu biết càng sâu thì niềm tin tôn giáo càng vững. Còn tổ chức của
giáo hội có chặt chẽ hay lõng lẻo, cũng không thành vấn đề. Thậm chí,
có những tín đồ của Phật giáo, Thiên Chúa giáo hay một tôn giáo nào
khác, rất có thể không đi chùa, không đến nhà thờ, không chấp hành
những nghi lễ nào đó do giáo hội quy định, nhưng họ vẫn là tín đồ tôn
giáo theo đúng đòi hỏi lương tâm họ. Đức Phật thường dạy học trò
mình rằng: “Không nên chấp nhận những lời dạy của Ta do lòng kính
trọng, mà trước hết hãy kiểm nghiệm những lời dạy đó, như dùng lửa thử
vàng vậy”. Phật dạy: “Một điều là đúng hay sai, không phải là quyền uy
và thần khải”. Phật ví những tín đồ như một đoàn người mù, dẫn dắt nhau
đi, người đi đầu không thấy gì hết, người đi cuòi cũng không thấy gì
hết. Phật cho rằng chấp nhận chân lý và giác ngộ chân lý là hai chuyện
khác nhau. Giác ngộ chân lý như người nếm mật, còn chấp nhận chân lý là
không hiểu, thì cũng giống như người dùng thìa hứng mật, múc mật mà
không nếm mật vậy. Cũng như thế, đơn thuần chấp
nhận chân lý do quyền uy của người khác, dù người khác đó là bậc đạo
sư, sẽ không có được sự giác ngộ tâm -linh, dẫn tới giải thoát tối hậu.
Tuân thủ một truyền thống hay quyền uy, tự nó không có giá trị gì hết.
Để được giác ngộ, học hỏi là cần thiết, nhưng sự học hỏi đó cần được bổ
sung bằng thực nghiệm cá nhân.
Tôn giáo luôn luôn là thực nghiệm qua cuộc sống như là vị thầy thuốc
tốt nhất, qua thân tâm của mình như là cuon sách quý nhất. Phật giáo là
như vậy.
CHÚ THÍCH:
1. Tylor, Edward B. 1871, Primitive Culture (Văn hóa nguyên thủy). London: John Murray; Đặng Nghiêm Vạn, 2001, Lý luận về tôn giáo và tình hình tôn giáo ở Việt Nam, Hà Nội, Nxb. Chính trị Quốc gia; Keyes, Charles F. 2006. “Dẫn luận: Sự thăng trầm của nghiên cứu nhân học về tôn giáo” trong Những vấn đề nhân học tôn giáo. Đào Thế Đức dịch; Nguyễn Văn Chính hiệu đính, Đà Nẵng, Hội KHLSVN, Nxb. Đà Nẵng, tr 7-27.
2. Phra Sripariyattimoli, 1999, The Buddha in the Eyes of Eminent Scholars (Đức Phật trong con mắt của các học giả uyên bác), Mahachu- lalongkorn BuddhistUniversity
3. Frederic Lenoir, 1999, Monde diplomatique, Novembre-Decembre.
Lời bình
Tác giả mở đầu bằng một nhận định sơ khởi:
…”Nếu định nghĩa tôn giáo, tức đạo, là con đường dẫn tới chân lý và
giác ngộ và giải thoát, thì đạo Phật một đạo giác ngộ và giải thoát
đúng là một tôn giáo. Vì bản thân Phật pháp đã từng được đức Phật ví
như cái bè dùng để qua sông, hay ngón tay chỉ mặt trăng, nghĩa là như
một phương tiện, chứ không phải là một cứu cánh, thì đạo Phật đúng là
một tôn giáo như vậy”…
Theo tôi nghĩ, nhận xét này có vẻ hời hợt và chưa cho thấy sự khác
biệt rõ ràng giữa Đạo Phật và những tông giáo khác, không giải thích
được tại sao các nhà bác họ nổi tiếng đương thời thán phục Đạo Phật.
Tất cả chỉ nằm ở nhận thức căn bản của Đạo Phật:
- Phật là gì ?
- Giác ngộ nghĩa là gì ?
Không nắm bắt ý nghĩa Đạo Phật là đạo của trí tuệ thì sẽ luôn luôn
bị rơi vào trạng thái siêu hình, thần thánh hoá Đạo Phật và đi vào con
đường mê tín dị đoan, đó chính là tình trạng “mạt pháp” mà bác Nhật Lệ
tự hỏi khi quan sát những hiện tượng tha hoá của các tông phái Tịnh Độ
Tông, Mật Tông, Thiền Tông, Nguyên Thuỷ.
Tôi chỉ xin vắt tắt rằng Đức Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni là con người
thật bằng xương bằng thịt như chúng ta, Ngài chỉ để lại một thông điệp
ngắn rõ ràng rằng:
- Tất cả chúng ta, con người là động vật duy nhất có trí khôn, biết
tư duy, tại sao không biêt động não để tìm ra chân lý sự vật trong vũ
trụ tạo hoá mà lại tự giam mình trong bóng tối vô minh nhắm mắt tin
xằng bậy vào những giáo điều mê hoặc để bị dẫn dắt vào con đường tội
lỗi, gây biết bao thống khổ trong lịch sử nhân loại ?
Đức Phật Thích Ca là người đã Giác Ngộ nhiều chân lý cơ bản của vũ
trụ, nhưng Ngài chưa thể chứng minh được ở thời điểm cách đây hơn 2500
năm. Tuy nhiên Ngài nói đúng: “Chúng sinh sẽ thành Phật”, sẽ mang trọng
trách chứng thực những chân lý do Ngài khám phá ra. Đó chính là khoa
học vậy.
Lê Quốc Trinh, Canada
Thứ Năm, 1 tháng 11, 2012
Ừh thì Ăn Chay
---
-->
Ăn là cái nhu cầu căn bản để con
người sống và tồn tại, bàn về cái ăn, cách ăn, món ăn thì có tỉ tỉ người từ cổ
chí kim từ đông sang tây luận bàn về nó, ngay ở cái nước Việt Nam mà cụ Tản Đà
viết :
“Dân
hai mươi triệu ai người lớn.
Đất
bốn nghìn năm vẫn trẻ con”
( giờ nay đã 90 triệu rồi nhưng chắc vẫn vậy ).
- để chỉ cái thân phận chua chát
của con người khi cái nghèo kéo theo cái hèn suốt ngày đeo bám, thì việc có cái
ăn đã là nỗi lo của biết bao phận người - vậy mà cụ Nguyễn Tuân cũng chỉ ra
được “Món Ngon Hà Nội” trong cái thời buổi khốn khó, rồi Trần Kiêm Đoàn viết về
món ăn nghèo nàn dân dã của Huế “ Cơm Hến “ – một món mà chỉ có nước, ruốc,
rau, rau, rồi rau – mà cứ như viết về một món “sơn hào hải vị”, khiến người đọc
vừa đọc vừa nuốt nước miếng nhớ về món ăn xưa, khóe mắt cay cay nhớ về mảnh đất gánh liền với tuổi thơ, về những kỷ
niệm. Nhắc đến xứ Huế cũng nên nhắc đến người chị áo Lam - người huynh trưởng
của GĐPT - chị Hoàng Thị Kim Cúc với những cuốn sách “nấu món ăn Huế” , “Nấu 120 Món Ăn Chay”, …, ừhm nghĩ cũng lạ ăn chay thì
có rau xào rau luột rau nấu canh, củ này củ kia, rồi tàu hủ và tàu hủ chấm hết,
như ai đó từng hát “ nào tương chao tàu hũ dưa leo, ai chưa ăn chưa phải …”,
thế mà chị cũng chế biến ra được 120 món, rồi cũng nghĩ ăn chay lui tới chỉ mấy
thứ đó chắc là ngán lắm nhỉ, vậy mà hồi nhỏ đi sinh hoạt các anh chị khi nào
cũng khuyến khích các em ăn chay, rồi nêu ra ích lợi của ăn chay, nào là nuôi
dưỡng lòng từ bi, bình đẳng, ăn chay tiết kiệm, ăn chay tốt cho sức khỏe vân
vân và vân vân, ừ thì trẻ con mà nghe thì nghe vậy mà chả thấy chi cả, mỗi ngày
ăn chay cứ như là cực hình, ngày thường ăn 4 năm chén đến hôm ăn chay gắng lắm
cũng chỉ được 2 chén, sức khỏe đâu chưa thấy, tối nằm ngủ cái bụng nó đánh
trống liên hồi.
Lớn lên một tí
những ngày làm việc chùa, những kỳ trại khi bữa ăn chỉ có rau luột chấm nước
tương, thêm bát xì dầu to tướng sắn vài miếng ớt mà nồi cơm phải vét đáy rồn
rột, đến cháy cũng không tha.
-->
Rồi những lúc khi đến dịp rằm
mùng một cũng tranh thủ ăn chay, dẫu là ăn chay đụng nhưng những câu chuyện góp
nhặt được từ những dịp đó thấy cũng hay hay, đáng để suy ngẫm.
Câu chuyện 1 : Sáng nay tại cơ quan có
vị khách hàng rất phiền phức, luôn miệng đòi hỏi này nọ, rồi lại còn to tiếng,
khiến mọi người phát bực, khi khách hàng đó đi khỏi, chị H buông lời “ May cho
ông đó là hôm nay tui ăn chay” làm mọi người cười òa vui vẻ, chợt sực nhớ ra
hôm đó ngày rằm mọi người rủ nhau ăn chay, mà cũng may thật, với những đòi hỏi
vô lý như thế mà ông ta không bị một người nổi tiếng là nóng nảy như chị H nhà
mình quạt cho 1 trận, thì ông cũng nên cám ơn ngày ăn chay kỳ diệu, ừh mà chắc
gì ông ta biết mọi người hôm đó ăn chay.
Câu chuyện 2 : Ở gần cơ quan tìm mỏi
mắt cũng không thấy quán bán đồ chay, ngày rằm mọi người chỉ bên góc đường có
quán vỉa hè bán đồ chay, ừh thì đi ăn, đến nơi nhìn quanh không thấy cái bàn
nào trống, đang loay hoay chợt nghe tiếng gọi từ cái bàn có 3 người lạ đang
ngồi “ lại đây ngồi đi còn cái ghế nè” mình đang lưỡng lự anh ta tiếp, “ ngồi
đi, ăn chay mà ngồi chật cho vui” ừ thì ngồi, quán đông nên gọi món ăn xong
phải ngồi chờ, mình vào sau nhưng món mình gọi lại có trước 3 người kia, thấy
áy náy mình nhắc với chủ quán, “đây còn 3 tô nữa chị ơi” thì có anh nói, “không
sao đâu, ăn chay nên có ngồi đợi tí cũng được, tại hôm nay quán đông”, mọi
người chợt mỉm cười, vừa ăn vừa trò chuyện, ăn thấy vui vui. Ừh nhỉ ăn chay làm
cho người ta cảm thấy thanh thản, nhẹ nhàn, không còn tất bật, tranh đua để rồi
cáu gắt, ăn chay làm cho mọi người đối xử với nhau có tình hơn, biết biết nhườn
nhịn thương yêu nhau, dù rằng xa lạ nhưng vào quán chay thì lại như quen, lúc
đó thầm nghĩ giá như hôm đó mọi người đều ăn chay thì hay biết mấy, rồi không
những hôm đó ăn chay mà tất cả mọi ngày mọi người đều ăn chay thì hay biết mấy,
thế giới sẽ hòa bình, sẽ không còn chiến tranh, khủng bố, mọi người sẽ ôm nhau
cho dù mới ngày hôm qua còn là kẻ thù của nhau, như hình ảnh những người lính 2
bên chiến tuyến trong ngày kết thúc cuộc nội chiến giữa hai miền nam bắc Hoa Kỳ
(ngày 9 tháng 4 năm 1865).
-->
Câu chuyện 3 : Trong quán ăn chay, vị khách gọi
-Chị ơi cho một tô bún Huế.
-Bún bò Huế hả ?
-Không tui ăn chay không ăn bún bò. Vị khách mỉm cười
trả lời.
Ừh nhỉ ăn chay thì cớ gì phải là bún bò, sao
không gọi là bún Huế hay bún nước, đã thế thì cứ gì phải đùi gà, tôm rang, mà
cứ thẳng thừng thừng gọi là mì căng chiên, mì căn xào gì đó đỡ phải vừa ăn vừa
tưởng tượng. Rồi thì có người bảo là tên gì chả được, việc gì phải nhọc công,
Ừh nhỉ việc gì phải nhọc công.
Câu chuyện 4 : Trong quán ăn chay, vị
khách gọi
-Chị ơi cho một tô hủ tiếu.
-……
-Chị ơi cho một tô hủ tiếu.
-…....
-Chị ơi cho một tô hủ tiếu.
-Biết rồi ồn ào, quán đông khách từ từ chứ gọi gì mà gọi
hoài. Chủ quán cao giọng
-…..
Ừh , biết sao
không trả lời trả vốn gì khi người ta gọi, quán chay, quán đông khách là có
quyền đối xử với khách hàng như thế à ? bán hàng chay mà chủ quán cứ như bà la
sát thế thì đi ăn mặn sướng hơn.
Câu chuyện 5 : Nhắc đến cái ăn là cái
bao tử nó như có kiến cắn, Ừh tai sao không đi kiếm cái chi bỏ vô cho mấy con
kiến nó cắn cho vui.