Thứ Hai, 16 tháng 9, 2013

GIA ĐÌNH PHẬT TỬ, TRÁCH NHIỆM GIÁO DỤC NHÂN CÁCH CHO GIỚI TRẺ TRONG TÌNH HÌNH HIỆN NAY

Bài tham luận của Đại đức THÍCH NGUYÊN THỌ (Trưởng BTS GHPGVN huyện Xuyên Mộc - Bà Rịa Vũng Tàu) trong Hội thảo Ngành Gia Đình Phật Tử lần thứ 1 tỉnh BR-VT với chủ đề "GIA ĐÌNH PHẬT TỬ - SỨ MỆNH & PHÁT TRIỂN"
(nguồn từ anh Trương Nguyễn - BHD Phân ban GĐPT Bà Rịa Vũng Tàu)



GIA ĐÌNH PHẬT TỬ, TRÁCH NHIỆM GIÁO DỤC NHÂN CÁCH
CHO GIỚI TRẺ TRONG TÌNH HÌNH HIỆN NAY

Kính bạch Chư tôn Hòa thượng chứng minh,
Kính bạch Chư Tôn đức Tăng Ni,
Kính thưa Ban Tổ chức,
Kính thưa các vị Đại biểu Chính quyền các cấp,
Kính thưa toàn thể Hội nghị

Thế giới ngày nay đang lâm vào những nguy hiểm trầm trọng, ô nhiễm môi trường, chiến tranh với các tệ nạn xã hội… Tuy nhiên có một mối ô nhiễm nguy hiểm còn tồi tệ hơn, to lớn hơn đó chính là ô nhiễm tâm linh. Đây chính là nguồn gốc của tệ nạn xã hội đang diễn ra thầm lặng nhưng tác hại vô cùng đến đời sống con người mà mấy ai quan tâm để giải quyết.
Lâu nay nền giáo dục được coi là nền móng của xã hội hòa bình và thịnh vượng. Giáo dục sẽ giúp cho chúng ta cách chữa trị những vết đau cho xã hội và sẽ hướng dẫn cách chuyển khổ đau thành phúc lạc cho mỗi người đặc biệt là tuổi trẻ. Nếu như chúng ta biết quan tâm và chọn ra những hướng giáo dục đúng đắn.

I. Vai trò trách nhiệm của Gia đình Phật tử trong tình hình hiện nay

Tổ chức Gia đình Phật tử là một tổ chức tự nguyện với nhận thức đúng đắn về giáo lý của Đức Phật, về bổn phận của người Phật tử tại gia. Trong tâm nguyện phụng đạo yêu nước được tổ chức cách đây 62 năm, màu áo lam mà Gia đình Phật tử được thử thách biết bao biến cố của dòng lịch sử song màu áo này đâu có dễ dàng phai được với phương châm mục đích là đào tạo thanh thiếu niên trở thành người Phật tử chơn chính gắn liền thiết thực tinh thần đạo pháp và dân tộc. Song đứng trước nhiều nghịch cảnh của xã hội nói chung đặc biệt là nền kinh tế thị trường luôn luôn biến động lòng người lấy giá trị đồng tiền làm thước đo cho bản thân, phần nào có bị mai một về đời sống tâm linh chảy đua theo nghịch cảnh đó.

Thanh niên Gia đình Phật tử cũng là một công dân của xã hội, hằng ngày họ phải tự làm kinh tế để nuôi sống bản thân và gia đình, nếu như không chen lấn để tìm kiếm cuộc sống hằng ngày thì làm sao có đời sống ổn định cho việc thu phục nhân tâm đối với giới trẻ thanh thiếu niên. Đó là nỗi khó khăn lớn nhất mà hiện nay thành viên Gia đình Phật tử (các cấp Huynh trưởng) đang rơi vào tình trạng kinh tế gia đình quá eo hẹp. Nhưng vì tâm nguyện, vì nguồn đam mê với màu áo mà các bậc Huynh trưởng phải chịu sự hy sinh tự thân để trưởng dưỡng đời sống tâm linh.

Khó khăn thứ 2, thanh thiếu niên trong tình hình hiện nay nói chung là tuổi trẻ mấy ai chú ý đến đời sống tâm linh mà đa phần giới trẻ hiện nay thì chỉ biết học kiến thức ngoài đời để đua chen với vật chất, quyền lực, tiền bạc và danh vọng. Nhưng sự thật tiền, quyền, danh lợi sẽ đưa họ đến hạnh phúc thật sự hay không? Từ chỗ nhận thức chưa sâu sắc nên họ bị rơi vào các tệ nạn xã hội ngày càng đông mà thanh thiếu niên về chùa tham gia sinh hoạt còn hạn chế.

Khó khăn thứ 3, các Gia đình Phật tử đang nằm trong tình trạng chưa gắn liền với cư sĩ Phật tử đó là Đạo tràng. Cho nên dẫn đến sự phối kết hợp hoạt động đang có nhiều hạn chế. Vị trụ trì chưa thực sự quan tâm đến đời sống tinh thần cũng như vật chất của Gia đình Phật tử. Mặc dù sự khó khăn về vật chất lần tinh thần của Gia đình Phật tử mà chúng ta đang gặp ...
Bên cạnh đó cũng có được nhiều thuận lợi đáng kể:

- Sự sẵn sàng hy sinh tự thân của Ban hướng dẫn Gia đình Phật tử vô cùng lớn lao, không quản tuổi cao sức yếu, xa xôi nhưng ở đâu có tổ chức sinh hoạt trại hè hoặc trại huấn luyện thì mấy cụ Huynh trưởng trên thất thập vẫn làm đến thức trắng đêm để nhắc nhở động viên các bác Huynh trưởng trẻ và đoàn sinh nhỏ .Về xã hội thì có sự bất cập đó là độ tuổi của các ban huấn luyện xứng đáng là bậc ông nội của các đoàn sinh nhưng sự ân cần cưu mang của các vị này đầy trách nhiệm.

- Giáo hội luôn quan tâm về đời sống tinh thần, động viên sách tấn để các bậc Huynh trưởng có động cơ đúng đắn để hổ trợ cùng Giáo hội để xây dựng Gia đình Phật tử ngày một vững vàng hơn. Đứng trước nghịch cảnh của xã hội, tuổi trẻ đa số bị mai một về đạo đức, lối sống và định hướng tương lai. Vậy thì Gia đình Phật tử Việt Nam nói chung và gia đình Phật tử tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu nói riêng phải xác định đúng đắn về động cơ, lý tưởng và hoài bão của mình để tập hợp thanh thiếu niên vào sinh hoạt ngày cành đông, xây dựng thêm nhiều gia đình mới. Ở đâu có chùa, có đạo tràng thì ở đó có Gia đình Phật tử, phải gắn kết với đạo tràng và vị trụ trì. Trách nhiệm ở đây không những ở các bậc Huynh trưởng mà trác nhiệm lớn nhất vẫn là các vị Trụ trì đều phải thật sự quan tâm và Bác gia trưởng song song với chúng đạo tràng, con cháu của các đạo hữu Phật tử phải làm gương trước chúng. Lâu nay chúng ta hầu như đang có phần thờ ơ trước trách nhiệm này, cha mẹ, ông bà là Phật tử trung thành nhưng con cháu lại xa rời Gia đình Phật tử. Muốn Phật hóa gia đình, muốn đời sống tâm linh của con cháu ổn định thì các đạo tràng phải thực sự quan tâm. Chẳng những quan tâm về tinh thần mà phải hy sinh về vật chất để cho con em chúng ta đi vào hoạt động. Ở các tỉnh phía Bắc hiện nay vai trò Gia đình Phật tử còn yếu và thiếu. Vùng Nghệ An, Hà Tĩnh mỗi em học sinh 3 tháng hè chỉ gửi vào trong quân đội 10 ngày cho tập, học, thiếu sinh quân phải đóng góp 3 triệu đồng nhưng phía quân đội họ lại gửi vào chùa mất 4 ngày để tu học. Như vậy con em đoàn sinh đi vào chùa tu học sân chơi lành mạnh mà cân đối số lượng thanh thiếu niên ngoài xã hội với con em đoàn sinh còn quá bất cập.

Kính bạch chư tôn đức,
Kính thưa Quí liệt vị,

Trong tình hình hiện nay nền giáo dục xã hội chỉ coi trọng việc truyền dạy và sức phát huy những chuyên môn chi tiết mà không song hành con đường đạo đức, chân lý của cuộc sống. Như vậy chỉ là phương diện bên ngoài chứ chưa phải là gốc rễ của giáo dục, không có gốc rễ thì nền giáo dục vô tình thúc đẩy con người đua đòi trong phát minh, trong khám phá của tham dục. Lợi bất cập hại cho một xã hội giàu có trong sự vị kỷ manh động, tàn ác và tư lợi.

Phật giáo là một hệ thống giáo dục của Đức Phật Thích Ca. Mục tiêu của nền giáo dục Phật giáo là đạt tới trí tuệ vì nó là yếu tố quyết định trong chân tính con người chứ không phải là cái gì bên ngoài để người ta đắc thú. 62 năm qua Gia đình Phật tử Việt Nam luôn luôn gắn kết với dân tộc, với sứ mệnh cao cả là giáo dục đời sống tâm linh cho giới trẻ có đức tin với giáo lý của Đức Phật giúp chúng ta nhận ra trí tuệ nội tại hoàn hảo và vô thường của mình. Sự hy sinh của Gia đình Phật tử không mưu cầu về tư lợi bất cứ điều gì mà họ chỉ có một tham vọng hy sinh tự kỷ đạt tới Chân - Thiện - Mỹ mà những bè bạn đồng sự hay con em thanh thiếu niên biết hồi tâm hướng thiện vun bồi cho thế hệ trẻ có năng lực Bi – Trí – Dũng và đức hạnh là việc làm có ý nghĩa và giá trị trong xã hội.

II. Những đề xuất kiến nghị
- Gia đình Phật tử là đứa con nằm trong lòng của Giáo hội. Vậy thì tất cả Chư Tôn đức Tăng Ni và các cấp Giáo hội nói chung phải có trách nhiệm thực sự trong công tác này.

- Về trách nhiệm các cơ sở thờ tự phải tạo điều kiện hết sức cho Gia đình Phật tử có Đoàn quán, có thư viện riêng để có họ có phương tiện trong lĩnh vực sinh hoạt.

- Các đạo tràng phải có chủ đề vận động con cháu về học tập giáo lý, tham gia vào gia đình Phật tử theo từng cấp bậc.

- Hiện nay Gia đình Phât tử đang sinh hoạt theo 2 tổ chức riêng đó là Gia đình Phật tử truyền thống và Gia đình Phật tử Phân ban, vấn đề này kiến nghị Giáo hội các cấp nên có giải pháp mới Ban Hướng dẫn Gia đình Phật tử Trung ương để hợp nhất với nhau, để tạo thêm sức mạnh, giáo lý của Đức Phật thì không phân biệt mà hiện nay Gia đình Phật tử lại có 2 luồng tư tưởng khác nhau.

- Các vị trụ trì là thành viên của Giáo hội các cấp mà cố vấn giáo hạnh cho Gia đình Phật tử ngoài tổ chức điều này nên xét lại vì trách nhiệm của tự thân đối với Giáo hội.

- Thường trực Ban Trị sự và Ban Hướng dẫn cư sĩ Phật tử cần có một giải pháp tạo kinh phí hỗ trợ cho Gia đình Phật tử trong sinh hoạt.

- Ban Hướng dẫn Gia đình Phật tử phải thực sự quan tâm đến các Huynh trưởng về mặt đạo đức lối sống để làm gương cho đoàn sinh.

- Trong dịp hè Ban Hướng dẫn cần đặt vấn đề với tổ chức thanh thiếu niên các địa phương và Ban giám hiệu nhà trường để tập hợp thanh thiếu niên trong các khóa tu mùa hè. Vấn đề này là trách nhiệm của các Trưởng ban Hướng dẫn Cư sĩ Phật tử các cơ sở phải nhiệt tâm và trách nhiệm.

- Chính quyền các cấp tạo điều kiện thuận lợi nhất cho các khóa sinh hoạt động trại hè tập trung.

III. Kết luận:

Gia đình là tế bào của xã hội, Phật tử là con em của Giáo hội. Sở dĩ đạo Phật lưu truyền 2000 trên đất Việt luôn luôn phát triển là vì giáo lý của Đạo Phật đã thấm nhuần trong tâm hồn người Việt.

Từ thời Đinh, Lê, Lý, Trần ngôi chùa không chỉ là nơi thể hiện tín ngưỡng của người dân Việt mà có lúc đóng vai trò là ngôi trường dạy chữ cho con dân. Đạo Phật có lúc đã trở thành Quốc giáo như dưới thời Lý, Trần nền tảng đạo đức của xã hội được hun đúc từ giáo lý của Đức Phật. Trong điều kiện hiện nay nếu như các trường học đưa vào các môn Hán học và Đạo đức luân lý kết hợp với giáo dục công dân. Gia đình Phật tử được củng cố và phát triển cả bề nổi lần chiều sâu thì xã hội chúng ta sẽ thăng hoa tốt đẹp ngang tầm với thời đại.

Chúng tôi mong rằng Hội thảo Gia đình Phật tử là cơ hội thức tỉnh và quy trách nhiệm cho toàn Giáo hội trong sự nghiệp nuôi dưỡng đời sống đạo đức tâm linh của giới trẻ trong tình hình hiện nay mà xã hội đang rất chú trọng. Đây là giá trị đích thực của Phật giáo nói chung không chỉ tồn tại trong tư tưởng mà còn đang hiện diện thông qua sự nỗ lực của hàng triệu Phật tử nhằm vươn tới lẽ sống vì Tổ quốc giàu mạnh, nhân dân hạnh phúc điều đó càng khẳng định được vị trí và vai trò của Phật giáo trong suốt quá trình đồng hành cùng dân tộc.

Cuối cùng thay mặt Thường trực Ban Trị sự Giáo hội Phật giáo huyện Xuyên Mộc chúng con thành tâm kính chúc Chư Tôn đức pháp thể khinh an chúng sanh dị độ.
Kính chúc quí vị Đại biểu an lành, hạnh phúc và thành đạt.
Kính chúc Hội nghị thành công tốt đẹp.
Xin gửi đến lời chào quyết tâm và trách nhiệm.
Nam Mô Hoan Hỷ Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát.


Đại đức THÍCH NGUYÊN THỌ

Chủ Nhật, 15 tháng 9, 2013

NHỮNG ĐẶC TÍNH ƯU VIỆT CỦA TỔ CHỨC GIA ĐÌNH PHẬT TỬ

(Bà Rịa Vũng Tàu tổ chức Hội thảo chuyên đề về Gia Đình Phật Tử. )

Gia đình Phật tử là một trong những tổ chức rất đặc thù của Phật giáo Việt Nam. Hơn 62 năm hình thành và phát triển, với mục đích là đào tạo Thanh, Thiếu, Ðồng niên trở thành Phật tử chân chính và góp phần cải tạo xã hội theo tinh thần Phật Giáo, tổ chức GĐPT đã đóng góp không nhỏ trong quá trình phát triển Phật giáo Việt Nam và giáo dục tuổi trẻ trở thành những con người tốt cho xã hội, trở thành những bậc pháp khí trong mai hậu.
Suốt một thời gian dài, trải qua bao biến cố lịch sử và thử thách, tổ chức GĐPTVN vẫn đứng vững và nêu cao lý tưởng phụng sự đạo pháp dân tộc của mình. Dẫu có nhiều phen thăng trầm, thịnh suy theo cuộc thế, nhưng niềm tin và ý chí sắc son vì đạo của GĐPT vẫn lung linh sáng ngời cùng sông núi.
Nhìn lại chặng đường đã đi qua, chúng ta thật không sao ngăn được nỗi niềm cảm khái và bội phục những cội cây đại thọ đã dựng xây và vun đắp cho tổ chức GĐPT ngày một vững vàng và phát triển. Nếu ai đó có quan tâm theo dõi quá trình lịch sử và phát triển của tổ chức GĐPT, chắc chắn là chúng ta sẽ rất ngạc nhiên và trân trọng. Dựa vào yếu tố nào mà tổ chức này có thể tồn tại và tiến xa như vậy.
Hôm nay, trong khuôn khổ của buổi Hội thảo, chúng tôi xin được giới thiệu những đặc tính ưu việt của tổ chức GĐPT và chính những đặc tính ưu việt này đà làm nên GĐPTVN xưa và nay.
- Có mục đích và lý tưởng cao thượng
- Có có mô hình đào tạo chuẩn mực theo độ tuổi
- Có đội ngũ Huynh trưởng đầy đủ tâm huyết và trình độ chuyên môn
- Có bề dày lịch sử
- Có Giáo hội bảo bọc và che chỡ
- Đi đúng với chủ trương của GHPGVN và nguyện vọng của Tăng Ni, Phật tử
- Phục vụ vì lý tưởng và chân lý Phật đà
Đại đức Thích Thiện Thông - Trưởng ban HDPT đồng thời là Trưởng ban Tổ chức điều hành buổi hội thảo
1. Tính ưu việt thứ nhất là có mục đích và lý tưởng cao thượng chân chính:
Mục đích và lý tưởng là hai yếu tố khẳng định lập trường, chủ trương hành động của một tổ chức, và nó cũng là linh hồn của tổ chức đó. Mục đích của GĐPT là đào tạo Thanh, thiếu, đồng niên trở thành người Phật tử chân chính bằng lý tưởng giải thoát phục vụ cho đạo pháp và dân tộc. Từ mục đích này, chúng ta thấy được tiêu chí hành động của tổ chức GĐPT là luôn hướng về tuổi trẻ, vì tuổi trẻ là thế hệ kế thừa, có đủ khả năng giữ gìn kho tàng giáo pháp và tiếp nối hoài bão thiêng liêng của những bậc tiền nhân. Tuổi trẻ là độ tuổi vừa đủ để bắt đầu học tập thực hiện những công việc của người lớn, là độ tuổi mang nhiều khát vọng vươn lên để trở thành những con người đích thực, sống có ý nghĩa cho cuộc đời.
Nhắm đến tuổi trẻ để đào tạo và hun đúc tinh thần phục vụ cho lý tưởng giải thoát là một mục đích vô cùng cao thượng và chân chính. Chính nhờ sống với mục đích cao thượng này, nhiều huynh trưởng, đoàn sinh đã giác ngộ và xuất gia trở thành những bậc pháp khí làm rường cột cho Phật giáo.
Khi thực tế cho thấy những đạo tràng tu học ngày nay đa số là người lớn tuổi thì tổ chức GĐPT lại cần thiết biết bao để tạo nên sức sống, niềm tin và sự cân bằng các tổ chức Phật giáo.
2. Tính ưu việt thứ hai là có mô hình đào tạo chuẩn mực
GĐPT có hệ thống tổ chức và chương trình đào tạo cho mọi độ tuổi, phù hợp với đời sống, khoa học thực tiễn. Nếu ai đó được sinh hoạt trong tổ chức GĐPT hay có điều kiện tìm hiểu về tổ chức GĐPT thì chúng ta sẽ không khó để nhận ra đặc tính ưu việt này.
Phôi thai và hình thành khá sớm trong các tổ chức của Phật giáo, trải qua bao bước ngoặc thăng trầm của lịch sử, tổ chức GĐPT ngày càng hoàn thiện hệ thống tổ chức và chương trình tu học cho các bậc học, thích ứng với mọi độ tuổi. Từ ngành Oanh cho tới ngành Thiếu, từ đoàn sinh cho tới Huynh trưởng, từ những bậc học cơ bản (Hướng thiện, sơ thiện, trung thiện, chánh thiện) cho tới những bậc học nâng cao (Kiên, trì, định, lực), từ một em oanh vũ nhỏ tuổi cho tới một anh chị trưởng thâm niên đều có chương trình học tập và sinh hoạt tương ứng.
Nhưng nếu ai đó có tham gia sinh hoạt trong tổ chức thì chúng ta mới thấy rõ chương trình đào tạo có hệ thống và khoa học như vậy. Càng sinh hoạt chúng ta sẽ càng thấy gắn bó và mến thương tổ chức. Nhờ quá trình đào tạo khoa học này, chúng ta sẽ cảm thấy mình luôn được học hỏi và trưởng thành hơn trong cuộc sống và giáo pháp của Đức Phật.
3. Tính ưu việt thứ ba là có đội ngũ Huynh trưởng đầy đủ tâm huyết và trình độ chuyên môn:
Bất cứ một tổ chức GĐPT nào cũng có một đội ngũ Huynh trưởng để hướng dẫn và dạy dỗ cho các đoàn sinh. Các Huynh trưởng này đều phải trải qua các chương trình học tập và huấn luyện của tổ chức, đều đạt được một trình độ chuyên môn nhất định để có thể hướng dẫn lại cho các lớp đi sau. Một Huynh trưởng phải trải qua lễ truyền đăng thiêng liêng để nhận cho mình trọng trách sứ mạng của một Huynh trưởng, rồi từ đó tiếp tục nỗ lực phấn đầu để bước lên những nấc thang cao hơn trong sự nghiệp áo lam của mình.
Có rất nhiều Huynh trưởng suốt cả cuộc đời gắn bó với tổ chức GĐPT và màu áo lam. Dù hoàn cảnh có khó khăn, tình đời có thay đổi, cuộc thế có nhiễu nhương thì đối với các anh chị lý tưởng tình lam vẫn luôn sáng ngời và tha thiết
4. Tính ưu việt thứ tư là tổ chức có bề dày lịch sử:
Từ tổ chức Đồng ấu Phật tử năm 1932 cho đến Đoàn thanh niên Phật học đức dục (1940) rồi Gia đình Phật hóa phổ (1948) mới chính thức hình thành GĐPTVN (1951). Từ năm 1951 đến nay, GĐPT liên tục hoạt động trong lòng Giáo hội theo mục đích và lý tưởng ban đầu. Trải qua rất nhiều biến cố chính trị và lịch sử nhưng tổ chức GĐPT vẫn luôn giữ vững lập trường và chí nguyện của mình, tâm bất biến giữa trường đời vạn biến, dấn thân trọn vẹn cho lý tưởng và sự nghiệp giải thoát. Chính sự tồn tại xuyên suốt dòng lịch sử đó, đã khẳng định sức sống mãnh liệt và dẻo dai của tổ chức GĐPT. Chính bề dày của quá trình hình thành và phát triển hơn 60 năm đã tạo một vị thế vững chắc, đánh tan mọi cái nhìn e ngại về sự hoạt động hiệu quả của tổ chức GĐPT trong quá trình xây dựng tòa nhà GHPGVN.
Có thể một vài cá nhân chưa có thiện cảm với tổ chức GĐPT vì nguyên do nào đó. Nhưng chúng tôi tin tưởng rằng một ngày nào đó rất gần họ sẽ thay đổi cách nhìn và sẽ thân thiện với tổ chức GĐPT.
5. Tính ưu việt thứ năm là được Giáo hội bảo bọc và che chỡ:
Tổ chức GĐPT được sinh ra trong lòng Giáo hội nên lẽ tất yếu được Giáo hội bảo vệ và che chỡ cũng giống như dứa con của Giáo hội. Nhờ sự che chỡ và bảo vệ này mà tổ chức GĐPT mới tồn tại và phát triển bền vững.
Ngược lại, tổ chức GĐPT cũng là một trong những tổ chức phục vụ đắc lực cho Giáo hội trong mọi hoạt động nên Giáo hội phải có nhiệm vụ che chỡ và tạo điều kiện cho GĐPT càng phát triển hơn. Giả sử, nếu GĐPT tách ly khỏi Giáo hội thì chắc chắn là không bao giờ tồn tại lâu dài được. Giáo hội là cha mẹ của tổ chức GĐPT nên chính là chỗ dựa vững chắc nhất cho GĐPT quy hướng và nương tựa.
Đây cũng chính là động lực rất lớn cho tổ chức GĐPT giữ vững niềm tin, sẵn sàng dấn thân cho lý tưởng.
6. Tính ưu việt thứ sáu là đi đúng với chủ trương của GHPGVN và nguyện vọng củaTăng Ni, Phật tử:
Tổ chức GĐPT là một tổ chức thành viên của GHPGVN, luôn trung thành với lý tưởng giải thoát giác ngộ và phục vụ nhân sinh, luôn đi đúng với những chủ trương, đường lối hoạt động của GHPGVN, luôn phục vụ cho các nhu cầu của Giáo hội không từ nan. Suốt thời gian qua, GĐPT đã có nhiều thành tựu trong các chương trình Phật sự của Giáo hội, góp phần thiết thực làm Phật pháp ngày càng xương minh, xã hội ngày càng lành mạnh.
Tổ chức GĐPT cũng góp phần không nhỏ trong việc đào tạo các Thanh thiếu đồng niên trở thành người Phật tử chân chính, sống có ích cho xã hội. Đồng thời, giúp cho xã hội bớt những tệ nạn về sự trụy lạc, xuống cấp của đạo đức
Ngày nay, một bộ phận không nhỏ của tầng lớp trẻ đang bị tha hóa bởi những thú vui không lành mạnh do đời sống vật chất và công nghệ phát triển. Cho nên, các gia đình Phật tử rất cần phải đưa con em mình đi chùa và tham gia trong môi trường đào tạo của tổ chức GĐPT, vì có thể nói đây là một trong những mô hình đào tạo tuổi trẻ điển hình của Phật giáo và có độ bền cao nhất từ trước đến nay. Chính điều này đã tạo nên sinh khí hào hùng cho Phật giáo miền Trung, nơi có truyền thống tổ chức GĐPT lâu đời, luôn được truyền thừa và nhân rộng, tạo một sắc thái riêng đặc sệt màu lam của GĐPT.
7. Tính ưu việt thứ bảy là phục vụ vì lý tưởng và chân lý Phật đà:
Màu lam là màu áo truyền thống của GĐPT, nó là biểu hiện của các đức tính nhu hòa, bao dung, từ bi, hỷ xả. Đồng thời, nó cũng là biểu tượng của sức sống, niềm tin, hy vọng của tổ chức GĐPT. Khi nói đến lý tưởng của GĐPT, người ta thường nói đến biểu tượng màu lam. Giống như một tập thể hòa hợp, đoàn kết, gắn bó keo sơn, cùng nhau thực hiện lý tưởng người con Phật.
Tất cả việc làm của tổ chức GĐPT đều hướng về phục vụ cho lý tưởng giác ngộ, giải thoát và chân lý Phật đà từ trước đến nay chưa từng thay đổi. Nhờ vậy mà tổ chức GĐPT luôn song hành với mọi hoạt động của Giáo hội, chung thành một khối không thể tách rời. Dù thời chiến hay thời bình, dù thuận lợi hay khó khăn, trong mọi hoàn cảnh, tổ chức GĐPT vẫn luôn nêu cao tinh thần phục vụ vì lý tưởng, vì chân lý giải thoát của mình. Điều này, chúng ta đã được minh chứng qua các giai đoạn lịch sử của Phật giáo Việt Nam thời cận đại. Nếu cần hy sinh thân mình để bảo vệ chân lý, các đoàn sinh, Huynh trưởng của GĐPT vẫn sẵn lòng.
Bằng chứng là qua những lần Pháp nạn, thành viên của GĐPT từ đoàn sinh cho đến Huynh trưởng đã đem thân mạng của mình ra để góp phần tranh đấu về tự do, độc lập, hòa bình cho đạo pháp và dân tộc. Họ đã để lại tên tuổi như Nguyễn Thị Ngọc Lan, Huỳnh Tôn Nữ Tuyết Hoa, Nguyễn Thị Phúc, Lê Thị Kim Khanh, Trần Thị Phước, Nguyễn Thị Yến, Nguyễn Văn Ðạt, Ðặng Văn Công, Quách Thị Trang, Ðào Thị Yến Phi, Phan Duy Trinh, Nguyễn Ðại Thức, Phạm Gia Bình.
Trong bất kỳ hoạt động nào của Phật Giáo Việt Nam luôn có mặt tổ chức GĐPT
Nói tóm lại, GĐPT là một tổ chức rất lý tưởng để các gia đình gởi con em mình tham gia sinh hoạt. Mái nhà lam này, sẽ giúp tất cả các em hình thành một nhân cách cao đẹp, giúp các em thấy được ý nghĩa của cuộc đời và chân lý giải thoát giác ngộ, giúp các em sống tích cực biết thương yêu và tha thứ cho mọi người. Ngoài ra, còn là môi trường giúp các em ươm mầm để có thể trở thành một Tu sĩ chân chính để phục vụ cho nhân sinh và xã hội.
Chúng tôi nêu lên 7 đặc tính này không ngoài mục đích cho tất cả chúng ta nhìn nhận một cách khách quan về bản chất của tổ chức GĐPT, là một mô hình giáo dục đặc biệt của GHPGVN đối với thế hệ trẻ. Từ đây, có thể sản sinh ra những bậc pháp khí cho Phật giáo Việt Nam chúng ta trong tương lai.
Mong rằng tất cả mọi người hãy quan tâm và yêu thương GĐPT hơn nữa để tổ chức GĐPT ngày càng khởi sắc hơn.
Đại đức THÍCH THIỆN THÔNG
      (Trưởng Ban Hướng dẫn Phật tử tỉnh BR-VT)

Cách thức đánh Chuông Mõ và Chuông Trống Bát Nhã

( Sưu tầm)
1/ Nghi thức chuông mõ khi tụng kinh.
Hai bên bàn thờ Phật, chuông để bên tay trái đức Phật, mõ bên tay phải.
Trước khi bắt đầu thời kinh, người đánh chuông gia trì thỉnh 6 tiếng, để báo cho mọi người biết, chánh điện đã lên nhang đèn xong, mời mọi người giữ 6 căn thanh tịnh vào lễ Phật, tụng kinh.
Khi chủ lễ vào vị trí, bắt đầu niệm hương, thỉnh 3 tiếng chuông, sau đó thấy chủ lễ xá thì thỉnh 1 tiếng chuông, khi lạy thì thỉnh 1 tiếng chuông, lúc trán chạm xuống nền thì dùng dùi chuông gõ vào vành chuông nhưng giữ lại trên vành chuông, không cho âm thanh ngân vang, gọi là dập.
Sau khi Chủ lễ niệm bài Quán tưởng và Ðãnh lễ, hoặc trước bài Tán Lư Hương:Lư hương xạ nhiệt ... hoặc Tán Dương Chi:Dương Chi tịnh thủy ... hoặc Cử Tán:Chiên đàn hải ngạn ... thì khai chuông mõ như sau : Chuông thỉnh trước ba tiếng O O O (ba tiếng rời nhau)
Mõ gõ tiếp theo chuông bảy tiếng: –     –     –     –     – –     – (bốn tiếng rời, hai tiếng liền nhau và một tiếng rời ra sau cùng)
Rồi chuông mõ hòa với nhau như sau O  –  O  –  O  –     –     – – O (chuông thỉnh trước, mõ gõ sau, sau 3 tiếng thì chuông ngừng, mõ gõ tiếp theo tiếng thứ tư, năm sáu gõ liền nhau, tiếng thứ bảy của mõ, thì chuông thỉnh một lượt với tiếng mõ.
Trong mỗi bài kinh, kệ, chú mỗi một tiếng, mõ phải gõ một cái, chú luôn luôn đọc nhanh nên mõ phải gõ nhanh. Bất cứ bài nào cũng vậy mõ bắt đầu gõ vào tiếng thứ 2, thứ 4 và những tiếng tiếp theo, và khi còn 5 tiếng chấm dứt thì mõ gõ rất chậm, rồi gõ liền 2 cái ở tiếng áp chót và một cái ở tiếng chót.
Còn chuông thì trong bài dài, thỉnh thoảng thỉnh một tiếng chuông, những bài chú niệm ba lần, bảy lần, mười lần, hai mươi mốt lần, cứ mỗi lần hết là thỉnh một tiếng chuông, còn niệm danh hiệu Phật hay Bồ Tát ba lần, mười lần hay nhiều hơn, sau ba lần hay mười lần ấy mới thỉnh chuông (thường chú ý vào vị chủ lễ, khi thấy vị chủ lễ cuối đầu xá, đó là chấm dứt niệm chú hay chuyển sang niệm danh hiệu Phật hay Bồ Tát khác). Cuối mỗi bài kinh, kệ, chú thỉnh chuông vào tiếng thứ 5, thứ 3 và tiếng sau cùng.
Ví dụ :
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp
........
Nguyện gii NhưO Lai chơn O tht nghĩa O
Khi thời kinh chấm dứt thì thỉnh một hồi chuông và 3 tiếng rời ra sau cùng. Có nghĩa là giữ cho ba nghệp thân khẩu ý luôn được thanh tịnh.
Một cách khác, nghi thức khai chuông mõ và ý nghĩa như sau.
- Trước đánh ba tiếng (tiên khởi tam),
- Kế nhịp bảy (thứ lôi thất),
- Tiếp đánh ba (tịnh đả tam),
- Giữa đánh mười (trung đả thập)
- Sau cùng dứt bốn (hậu diệt tứ).
* Trước đánh ba tiếng: Nghĩa là chúng sanh do ba nghiệp thân khẩu ý tạo tác mọi điều ác, sau sẽ đọa vào trong ba đường dữ: địa ngục, ngạ quỷ và súc sanh. Nhưng cũng có nghĩa là cố trừ ba độc: tham, sân và si để vượt lên ba giải thoát để chứng đắc ba đức: Pháp thân, Bát nhã thân và Giải thoát thân. (Phần nầy giảng lược đi nên không mấy ai biết đến.)
* Kế tiếp nhịp bảy tiếng: Đây là tiêu biểu cho thất chi tội. Về thân thì có ba: Sát, đạo và dâm. Về khẩu thì có bốn: Vọng ngôn, ỷ ngữ, lưỡng thiệt và ác khẩu. Sau khi đã đoạn trừ được bảy tội nêu trên liền chứng được thất giác chi: Trạch pháp, tinh tấn, hỷ, trừ, xả, định và niệm.
* Tiếp đánh ba tiếng: Là phát nguyện tu tam học tức là giới, định và huệ để quyết chứng cho được ba thừa: Thanh văn, Duyên giác và Bồ tát.
Giữa đánh mười tiếng: Đó là tiêu trừ mười điều ác gồm thất chi tội cọng thêm của ý có ba là mười. Từ đó, chứng nhập mười thân gồm: Bồ đề thân, nguyện thân, hóa thân, lực thân, trang nghiêm thân, oai thệ thân, ý sanh thân, phước thân, pháp thân và trí huệ thân. (Phần nầy, sau nầy giản lược đi, không mấy ai dùng đến và cũng không mấy ai biết để ý đến.)
* Sau cùng dứt bốn: Tức là để tiêu trừ bốn tướng: Sanh, lão, bệnh và tử để chuyển thành bốn trí:
+ Thành sở tác trí: Tiền ngũ thức (nhãn, nhỉ, tỷ, thiệt và thân),
+ Diệu quan sát trí: Đệ lục ý thức,
+ Bình đẳng tánh trí: Đệ thất Mạc na thức,
+ Đại viên cảnh trí: Đệ bát A lại da thức.
2/. Nghi thức sử dụng chuông công phu
Người thỉnh chuông khai chuông công phu theo bài kệ sau :"
Hồng chung sơ khấu, bảo kệ cao âm
Thượng triệt thiên đường, hạ thông địa phủ
U Minh giáo chủ cứu khổ bổn tôn
Cứu bạt minh đồ Ðịa Tạng Vương Bồ Tát.
"Án dà ra đế dạ ta bà ha"
Tiếp theo nhập bảy tiếng chuông nhỏ, rồi thỉnh ba tiếng lớn và chậm rãi:
o o o o o o o O O O(vô tam)
Theo đó cứ đọc hai câu kệ lại thỉnh một tiếng chuông như sau:
Nguyện thử chung thinh siêu pháp giới,
Thiết vi u ám tất giai văn. O(thỉnh tiếng chuông thứ nhất)
Văn trần thanh tịnh chứng viên thông,
Nhứt thiết chúng sanh thành chánh giác. O (thỉnh tiếng chuông thứ hai)
Văn chung thanh phiền não khinh
Trí huệ trưởng, Bồ Ðề sanh. O (thỉnh tiếng chuông thứ ba)
Ly địa ngục, xuất hỏa khanh
Nguyện thành Phật Ðộ chúng sanh. O (thỉnh tiếng chuông thứ t ư)
Tiếp theo đó là thỉnh ba hồi chuông, sau đó người thỉnh chuông sẽ thỉnh từng tiếng sau mỗi danh hiệu Phật, Bồ Tát, hay sau mỗi câu chú.
Cuối cùng thỉnh một hồi chuông và bốn tiếng để báo chấm dứt thời công phu.
O O O O O O O O o o o o o O O O O (dứt tứ)
3/. Chuông trống Bát Nhã.Chuông trống Bát Nhã là danh từ dùng để chỉ chuông to, trống lớn, thường chùa có thể xây lầu chuông, gác trống và treo "tả chung, hữu cổ". Thật ra cụm từ Chuông trống Bát nhã là để chỉ cách đánh chuông và trống theo một bài kệ "Bát Nhã Hội". Là một nghi thức hành lễ Phật giáo Trung Hoa truyền sang Việt Nam, có lẽ xuất phát từ Không Tông, do nghi thức rất trang trọng nên dần dần chùa chiền các tông phái khác áp dụng theo. Có nhiều cách đánh chuông trống Bát Nhã, chúng tôi ghi ra một trong những cách đánh ấy:
a. Phần khai chuông trống
- Ba hồi chuông:
Trước khi thỉnh chuông, người đánh chuông nhập bảy tiếng chuông nhỏ, rồi thỉnh 3 tiếng thật lớn, thật chậm rãi (1) o o o o o o o O O O (vô tam)
Tiếp theo là thỉnh ba hồi chuông
Lần 1: O O O O O O O O O O O O o o o o o o o o o (lúc đầu chậm lúc sau mau dần và nhẹ tay)
Lần 2: Giống như lần 1
Lần 3: Giống như lần 1, tuy nhiên khi chấm dứt, thỉnh thêm 4 tiếng thật lớn và rời nhau: O O O O (dứt tứ).
- Ba hồi trống:
Trước khi đánh trống nhập bảy tiếng trống nhỏ, rồi đánh ba tiếng thật lớn, thật chậm rãi: x x x x x x x X X X (2)
Tiếp theo sau là đánh ba hồi trống: Ðánh trống giống như thỉnh chuông trong ba lần 1, 2 và 3 nói ở phần trên.
b. Phần nhập chuông trống(Chuông và trống đánh cùng một lúc):
Khi dứt tiếng trống lần 3, người đánh trống vừa nhẩm đọc bài kệ Bát Nhã, mỗi tiếng đánh một tiếng trống, nhưng hai tiếng sau đánh liền nhau. Người thỉnh chuông, sau mỗi câu kệ thỉnh một tiếng chuông (sau hai tiếng trống đắnh liền nhau, thỉnh một tiếng chuông)
Lần 1:
Bát Nhã hội X  XX O
Bát Nhã hội X  XX O
Bát Nhã hội X  XX O
Thỉnh Phật Thựợng Ðường X  X XX O
Ðại chúng đồng văn X  X XX O
Bát nhã âm X  XX O
Phổ nguyện pháp giới X  X  XX O
Ðẳng hữu tình X  XX O
Nhập Bát Nhã X  XX O
Ba la mật môn X  X  XX O
Ba la mật môn X  X  XX O
Ba la mật môn X  X  XX O
Lần 2: Ðánh giống như lần 1
Lần 3: Ðánh giống như lần 1, tuy nhiên, khi hết câu cuối bài kệ rồi, đánh tiếp theo phần kết thúc:
c. Phần chuông trống kết thúc (3) :
X O X O X O X O X O X O x o x o x o x o x ovà sau cùng đánh bốn tiếng trống và chuông chấm dứt (dứt tứ) X O X O X O XX OO (đánh kép)
d. Phần kết thúc:
Lúc khởi đầu, chuông trống Bát Nhã đánh ba hồi, nhưng khi kết thúc buổi lễ cũng như thời kinh chuông trống Bát Nhã chỉ đánh một hồi mà thôi.
d. Một cách đánh chuông trống Bát Nhã khác:
- Mới đầu đánh nhập 2 tiếng: biểu thị NHỊ ĐẾ dung thông (pháp thế gian và pháp xuất thế gian dung thông, không ngăn ngại).
- 3 tiếng tiếp (mỗi lần 1 tiếng): tượng trưng cho sự khấu đầu quy y TAM BẢO, nguyện dứt trừ tam độc: tham, sân si.
- 7 tiếng sau đó (vì tiếng thứ 7 và 8 đánh gấp, tính gộp thành 1 tiếng), tượng trưng cho BÁT NHÃ HỘI THỈNH PHẬT THƯỢNG ĐƯỜNG, tức tác pháp thỉnh Phật thăng toà.
- Nếu 7 tiếng này tính thành 8 tiếng: tượng trưng cho câu "MA HA BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA" hoặc BÁT NHÃ HỘI THỈNH PHẬT LAI CHỨNG MINH, tức tác pháp thỉnh Phật chứng minh.
- Cuối cùng đánh dứt 4 tiếng: tượng trưng cho chứng nhập TỨ ĐẾ.
e. Ghi chú:
( 1 ) Dù thỉnh chuông hay đánh trống, luôn luôn nhớ câu: "vô tam, dứt tứ” đây là trường hợp "vô tam" của chuông.
( 2 ) Ðây cũng là trường hợp "vô tam" của trống.
( 3 ) Nếu không thuộc bài kệ đánh trống, người tập đánh trống có thể nhớ các lần đánh trống theo cách đếm sau :
- Lần thứ nhất đánh ba tiếng trống
- Lần thứ hai đánh ba tiếng trống
- Lần thứ ba đánh ba tiếng trống
- Lần thứ tư đánh bốn tiếng trống
- Lần thứ năm đánh bốn tiếng trống
- Lần thứ sáu đánh ba tiếng trống
- Lần thứ bảy đánh bốn tiếng trống
- Lần thứ tám đánh ba tiếng trống
- Lần thứ chín đánh ba tiếng trống
- Lần thứ mười đánh bốn tiếng trống
- Lần thứ mười một đánh bốn tiếng trống
- Lần thứ mười hai đánh bốn tiếng trống
Có lẽ khởi đầu chuông trống Bát Nhã chính thức dùng trong nghi lễ lớn của Phật Giáo, hoặc để thỉnh Phật chứng minh cho lễ kỹ niệm lớn, hoặc lễ giới đàn, hay Ðại sư đăng đàn thuyết pháp, bởi vì trong bài kệ có câu "Thỉnh Phật thượng đường", ngày nay người ta còn dùng để đón rước chư Tăng.
Người Phật tử tưởng nên biết về cách bài trí, về nghi thức chuông mõ, chuông trống Bát nhã, để sử dụng khi tụng kinh ở chùa hoặc ở nhà. Có khi cần thiết để giải thích cho người khác được biết về ý nghĩa cho tường tận.
 

MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ HƯỚNG DẪN PHẬT PHÁP CHO NGÀNH THIẾU


 A. ĐẶT VẤN ĐỀ

Tổ chức GĐPT được khai sinh cách đây hơn 60 năm. Trong quá trình tồn tại và phát triển Tổ chức - để thích hợp cho từng thời kỳ - Chư tôn đức cố vấn Giáo hạnh và các anh chị Huynh trưởng GĐPT đã có nhiều cuộc Hội nghị, hội thảo nhằm tìm ra các phương pháp giáo dục phù hợp. Trong những ngày sơ khai, Nội quy GĐPT đã phân chia lứa tuổi đoàn sinh ra thành 3 bậc (cấp) học theo sự phát triển Tâm – Sinh lý và từng cấp độ nhận thức của tư duy: Thanh - Thiếu và Đồng Niên. Việc phân định 3 bậc học nhằm giúp cho Tổ chức và Huynh trưởng - những người hướng dẫn tu học cho các em – có hình thức và phương pháp truyền đạt thích hợp.
Sau 1975 do tình hình đất nước, tổ chức GĐPT có 1 thời gian khá dài tạm ngưng sinh hoạt, mặc dầu còn nhiều khó khăn, các anh chị HT cốt cán và tâm huyết với màu Lam của từng địa phương đã tìm mọi cách để duy trì tổ chức. Trong thời điểm này, do bối cảnh chung nên việc huấn luyện, đào tạo hàng ngũ HT còn manh múm và đôi khi không được kỹ lưỡng. Hơn thế nữa do điều kiện cá nhân của từng HT nên khả năng nhận thức, tiếp thu và hướng dẫn các bài học trong chương trình của từng người còn nhiều điều chưa chính xác. Năm 1992 Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam chính thức đưa lại vấn đề GĐPT lên chương trình nghị sự, Tổ chức bắt đầu giai đoạn phục hoạt và sự tồn tại của GĐPT được chính thức thừa nhận sau Đại Hội GHPGVN năm 1997. Kể từ đó các đơn vị GĐPT lần lượt hoặc được công khai, hoặc tái thành lập hoặc hình thành mới, và chính từ sự việc trên đã đặt cho Phân Ban Hướng Dẫn 1 khó khăn nhất định khi hàng ngủ HT vừa thiếu, lại vừa không đồng nhất về khả năng, trình độ.

Từ đó việc huấn luyện HT đặt ra 1 yêu cầu cấp thiết nhất trong lãnh đạo. Tuy nhiên, do đặc thù chung của Tổ chức trong 1 thời gian khá dài như trên chúng ta đã mất đi khá nhiều HT vừa có tâm huyết, vừa vững về nội điển, tổ chức, sinh hoạt… nên hàng ngũ HT chúng ta hiện tại còn nhiều bất cập. Tuy vẫn được tham dự các lớp tu học thường kỳ, vẫn được tham gia các trại huấn luyện nhưng nhìn chung khả năng của anh em HT chúng ta vẫn chưa thể bắt kịp nhu cầu bức thiết hiện tại của Tổ chức và đất nước. Việc hướng dẫn cho Đoàn sinh  GĐPT về Phật Pháp nếu không có sự chuẩn bị kỹ lưỡng dễ dẫn đến sự nhàm chán của các em. Xác định rõ: Tổ chức GĐPT không phải là trường học thứ 2 (tuy là tổ chức Giáo dục) là phương cách tốt nhất để mỗi HT cầm Đoàn hay hướng dẫn các bậc học định hướng về bài hướng dẫn của mình một cách khái quát hơn và đem lại nhiều kết quả hơn.

Phân Ban Hướng Dẫn BRVT tập hợp những ý kiến của những nhà giáo dục, chư tôn đức, các tài liệu trước đây của GĐPT.VN thành 1 tài liệu nhằm giúp cho HT chúng ta có thêm tư liệu để nghiên cứu trong quá trình hướng dẫn các em đoàn sinh tu học Phật Pháp. Trong quá trình thực hiện, có thể có những vấn đề mà người viết chưa thực hiện tốt, mong nhận được sự góp ý của quý anh chị HT để chúng ta sửa chửa - bổ sung hoàn thiện hơn.

B. NỘI DUNG

I. TÂM LÝ NGÀNH THIẾU VÀ VẤN ĐỀ NHẬN THỨC

1/ Các bước phát triển tư duy con người

Vào năm 1956, Benjamin Bloom đã viết cuốn Phân loại tư duy theo những mục tiêu giáo dục: Lĩnh vực nhận thức. Trong đó phần mô tả về tư duy gồm sáu mức độ của ông đã được chấp nhận rộng rãi và được sử dụng trong rất nhiều lĩnh vực cho tới ngày nay. Danh mục những quá trình nhận thức của ông được sắp xếp từ mức độ đơn giản nhất: gợi lại kiến thức; đến mức độ phức tạp nhất: đánh giá giá trị và tính hữu ích của một ý kiến. Lĩnh vực nhận thức (tư duy) liên quan đến các mục đích về kiến thức và các kĩ năng trí tuệ, bao gồm 6 mức độ sau đây:

Nhớ (biết): Được định nghĩa là sự nhớ lại các dữ liệu đã học được trước đây. Điều đó có nghĩa là một người có thể nhắc lại một loạt dữ liệu, từ các sự kiện đơn giản đến các lý thuyết phức tạp, tái hiện trong trí nhớ những thông tin cần thiết. Đây là cấp độ thấp nhất của kết quả học tập trong lĩnh vực nhận thức.

Thông hiểu: Được định nghĩa là khả năng nắm được ý nghĩa của tài liệu. Điều đó có thể thể hiện bằng việc chuyển tài liệu từ dạng này sang dạng khác (từ các từ sang số liệu), bằng cách giải thích tài liệu (giải thích hoặc tóm tắt) và bằng cách ước lượng xu hướng tương lai (dự báo các hệ quả hoặc ảnh hưởng). Kết quả học tập ở cấp độ này cao hơn so với nhớ, và là mức thấp nhất của việc thấu hiểu sự vật.

Vận dụng: Được định nghĩa là khả năng sử dụng các tài liệu đã học vào một hoàn cảnh cụ thể mới. Điều đó có thể bao gồm việc áp dụng các quy tắc, phương pháp, khái niệm, nguyên lý, định luật và lý thuyết. Kết quả học tập trong lĩnh vực này đòi hỏi cấp độ thấu hiểu cao hơn so với cấp độ hiểu trên đây.

Phân tích: Được định nghĩa là khả năng phân chia một tài liệu ra thành các phần của nó sao cho có thể hiểu được các cấu trúc tổ chức của nó. Điều đó có thể bao gồm việc chỉ ra đúng các bộ phận, phân tích môí quan hệ giữa các bộ phận, và nhận biết được các nguyên lý tổ chức được bao hàm. Kết quả học tập ở đây thể hiện một mức độ trí tuệ cao hơn so với mức hiểu và áp dụng vì nó đòi hỏi một sự thấu hiểu cả nội dung và hình thái cấu trúc của tài liệu.

Tổng hợp: Được định nghĩa là khả năng sắp xếp các bộ phận lại với nhau để hình thành một tổng thể mới. Điều đó có thể bao gồm việc tạo ra một cuộc giao tiếp đơn nhất (chủ đề hoặc bài phát biểu), một kế hoạch hành động (dự án nghiên cứu), hoặc một mạng lưới các quan hệ trừu tượng (sơ đồ để phân lớp thông tin). Kết quả học tập trong lĩnh vực này nhấn mạnh các hành vi sáng tạo, đặc biệt tập trung chủ yếu vào việc hình thành các mô hình hoặc cấu trúc mới.

Đánh giá: Được định nghĩa là khả năng xác định giá trị của tài liệu (Tiểu luận, bài khảo sát năng lực, báo cáo nghiên cứu…). Việc đánh giá dựa trên các tiêu chí nhất định. Đó có thể là các tiêu chí bên trong (cách tổ chức) hoặc các tiêu chí bên ngoài (phù hợp với mục đích), và người đánh giá phải tự xác định hoặc được cung cấp các tiêu chí. Kết quả học tập trong lĩnh vực này là cao nhất trong các cấp bậc nhận thức vì nó chứa các yếu tố của mọi cấp bậc khác.

Người ta đã cố gắng phân chia mỗi mức độ kể trên thành hai ba thang bậc chi tiết hơn và cho đến nay riêng trong lĩnh vực nhận thức ở trình độ cấp cao có đến 15 thang bậc.
Phân loại tư duy của Bloom theo mục tiêu giáo dục (Truyền thống)

Kĩ năng Khái niệm Mức độ thể hiện
Biết Nhớ lại thông tin Xác định, miêu tả, gọi tên, phân loại, nhận biết, mô phỏng, làm theo
Hiểu Hiểu nghĩa, diễn giải khái niệm Tóm tắt lại, biến đổi, biện hộ, giải thích, lĩnh hội, lấy ví dụ
Vận dụng Sử dụng thông tin hay khái niệm trong tình huống mới Thiết lập, thực hiện, tạo dựng, mô phỏng, dự đoán, chuẩn bị
Phân tích Chia nhỏ thông tin và khái niệm thành những phần nhỏ hơn để hiểu đầy đủ hơn So sánh/đối chiếu, phân chia, phân biệt, lựa chọn, phân tách
Tổng hợp Ghép các ý với nhau để tạo nên nội dung mới Phân loại, khái quát hoá, cấu trúc lại
Đánh giá Đánh giá chất lượng Đánh giá, phê bình, phán đoán, chứng minh, tranh luận, biện hộ.

Ngoài cách đánh giá tư duy con người theo các mức độ 6 nhận thức trên còn có những cách đánh giá khác (xem phụ lục)
Ở chương trình tu học chung cho cả 2 ngành Oanh - Thiếu chúng ta chú trọng đến 3 bước phát triển năng lực tư duy đầu tiên của con người là : Biết - Hiểu và vận dụng (Thực sự, việc áp dụng 3 mức phát triển đầu tiên không có tính chất rõ ràng, cụ thể, một số bài học các em vẫn phát triển ở các mức độ tư duy cao hơn nhưng chỉ mới ở giai đoạn khởi đầu). Với ngành Thanh và HT các mức độ cao hơn sẽ được áp dụng vào việc tự học hoặc hoạch định 1 vấn đề nào đó. Nhất là với hàng ngủ HT đang có những bước đổi mới trong việc thực hiện các đề tài hay tiểu luận kết khoá.

Căn cứ vào tài liệu Phật Pháp được biên soạn cho các Ngành Thiếu và ngành Đồng trong Phân Ban cũng như sự hướng dẫn của các anh chị Trưởng trong các kỳ tham gia Trại huấn luyện người viết ghi nhận một tỷ lệ (gần đúng) như sau:

Với ngành Đồng: tỷ lệ Biết - Hiểu - Vận dụng là 40 - 40 - 20
Với ngành Thiếu: tỷ lệ Biết - Hiểu - Vận dụng là 30 - 40 - 30
2/ Tâm lý chia ngành (bậc)

Do đặc thù riêng, Tổ chức GĐPT phân chia thành 3 ngành theo lứa tuổi, hoặc 2 ngành theo giới tính. Trong phạm vi bài này xin phân tích vấn đề tâm lý cần được lưu ý để thích hợp với từng lứa tuổi khi giảng dạy.

Các nhận định chung về Tâm – Sinh lý lứa tuổi: (Theo tài liệu Nghiên huấn của các Trại Huấn luyện HT)

Oanh vũ: ngây thơ, yếu ơt, thiếu kiên nhẫn, chưa biết suy nghĩ, dễ tin, lệ thuộc vào tình cảm, thích thực hành...Tránh lối giảng dạy có tính cách từ chương, giáo khoa. Phải thực hành ngay.
Thiếu - Thanh: Tuổi dậy thì, cơ thể đổi thay đưa đến khủng hoảng tâm lý, dễ đam mê tình cảm, thắc mắc, lý luận, hiếu kỳ, nghiên cứu, tự cao, mơ mộng...Nên hướng dẫn các em tuổi này dưới hình thức hội thảo, nghiên cứu tìm học.

II- PHƯƠNG PHÁP HƯỚNG DẪN PHẬT PHÁP CHO NGÀNH THIẾU:

Bốn phương pháp trong Gia đình Phật tử mang tính lý luận xuyên suốt cho các môn học trong GĐPT:

Phương pháp quán niệm                 Phương pháp lý giải
Phương pháp huân tập                    Phương pháp hoạt động

Phương pháp huân tập và quán niệm thường sử dụng trong việc thực tập chánh niệm và tu tập tự thân. Trong quá trình hướng dẫn các đề tài Phật Pháp người Huynh trưởng thường sử dụng 2 phương pháp lý giải và hoạt động tương tự như các phương pháp diễn giảng, thuyết trình, gợi mở vấn đáp, nêu vấn đề, trực quan, thảo luận nhóm, tổ,...


1/ Những vấn đề then chốt khi hướng dẫn 1 bài Phật Pháp:
* Cần phải khế lý và khế cơ:
a) Khế lý là đúng với chơn lý, chánh pháp: những bài dạy không được sai Phật Pháp. Người dạy cần phải nghiên cứu nhiều, học hỏi nhiều. Chúng ta nên hiểu các em thông minh, nhận xét giỏi, hay hỏi nhiều câu thắc mắc, người dạy đạo Phật phải biết trả lời thông suốt để khỏi mất uy tín và làm thỏa mãn sự đòi hỏi nghiên cứu. Vì đạo Phật mênh mông như biển cả, căn cơ các em khó dò như bể sâu. Có học nhiều, nghiên cứu nhiều mới tạm xứng đáng dạy các em về Phật Pháp.

b) Khế cơ nghĩa là hợp tánh tình, căn cơ các em: Tánh tình các em Thiếu nam, Thiếu nữ trái hẳn nhau, cách dạy đạo Phật không thể nhất luật được. Kinh nghiệm cho chúng ta thấy rằng trong 5 hạnh : Tinh tấn, Hỷ xả, Thanh tịnh, Trí tuệ, Từ bi các em Thiếu nam phần đông thích hạnh Tinh tấn, còn các em Thiếu nữ chỉ thích hạnh Từ bi. Nhưng các Thiếu nam, Thiếu nữ thích hạnh Hỷ xả ngang nhau. Sự nhận xét trên cho chúng ta thấy rõ các em Thiếu nam nghiêng về hoạt động , thích phấn đấu lấn lướt hơn người;  các em Thiếu nữ nghiêng về tịnh, nhiều tình cảm và lòng thương, nhưng cả Thiếu nam, Thiếu nữ đều thích vui vẻ Hỷ xả. Tuổi các em là tuổi của nụ cười, tuổi của muôn hoa. Lại riêng trong hàng Thiếu nam hay Thiếu nữ, tâm trạng của các em rất phức tạp, tánh tình lại có thể thay đổi tùy theo tuổi, tùy theo sức học, tùy theo hoàn cảnh, người dạy Phập pháp phải tùy theo căn tánh mà dạy, chỉ bày hợp với căn cơ với từng tánh tình. Ðừng ham dạy nhiều, cần dạy ít nhưng phải hợp với tâm lý của các em.
 * Chọn khung cảnh và thời gian phù hợp: 

a) Thì giờ.- Các em Thiếu niên bậc Trung Thiện trở xuống thì chỉ dạy nửa giờ, các em bậc Chánh Thiện có thể dạy 45 phút hay một giờ, nên học Phật Pháp vào giờ đầu tiên sau khoá lễ.

b) An tịnh.- Ðừng cho các em chơi những trò chơi mạnh trước giờ Phật Pháp và lựa những chỗ thanh tịnh mà dạy.

c) Khung cảnh.- Nên sắp các em ngồi vòng tròn để người dạy có thể nhìn khắp các em. Ðừng sắp như lớp học vì khêu gợi các em hình ảnh một nhà trường thứ hai. Rất có thể tổ chức những lớp học ngoài trời, dưới những cây cổ thụ có bóng mát.

d) Nên dạy Thiếu nam, Thiếu nữ riêng.- Nếu có đủ người dạy, nên dạy Thiếu nam, Thiếu nữ riêng. Tuy cũng một bài Phật Pháp, nhưng dạy bên nam bên nữ khác nhau. Ví dụ như trong một câu chuyện kể cho các em, nếu là Thiếu nữ thì phải lựa những chuyện thiên về Từ bi, thiên về tình cảm; nếu là Thiếu nam thời phải lựa những chuyện hùng lực, những cử chỉ siêu phàm. Lại các em Thiếu nữ thiên về lòng tin và sự tịnh nhiều, các em Thiếu nam thời thiên về lý trí và ưng hoạt động nhiều, nên dạy Phật Pháp phải khác nhau.


Cho nên muốn buổi học Phật Pháp thiết thực có lợi ích cần phải dạy riêng Thiếu niên, Thiếu nữ; Điều này có thể có nhiều khó khăn, nhất là ở các đơn vị đang thiếu HT. Nếu phải dạy chung, chúng ta cần khéo léo lồng ghép cả 2 yếu tố sao cho cả 2 ngành đều không cảm thấy nhàm chán.
* Những vấn đề phải tránh :
1.- Không nên bắt các em tin một cách mù quáng - Ðạo Phật rất tôn trọng lý trí. Bắt các em nhắm mắt tin suông, tìn mù quáng, tức là trái với chơn tình thần đạo Phật. Vẫn biết tuổi các em còn nhỏ chỉ biết tin mà thôi, nhưng lòng tin ấy phải được sự lý giải khai sáng.

2.- Không nên nhồi sọ các em - Nhồi sọ là chồng chất bài nầy trên bài khác, không để các em có thời giờ suy nghiệm, thâm nhập; các bài Phật Pháp vô tình đã trở thành những món ăn tinh thần khó tiêu và vô tình chúng ta đã đè nén bộ óc non nớt của các em. Ðạo Phật chỉ khác tôn giáo, các chủ nghĩa khác; là ở nơi sự kính trọng quyền nhận xét cá nhân, tự do tư tưởng phát triển lý trí.

3.- Không nên sử dụng quá nhiều danh ngôn, từ ngữ chuyên ngành phải chú trọng thật hành- Có thực hành các em thật mới hiểu Phật Pháp, các em có ăn chay mới hiểu ích lợi của ăn chay, có niệm Phật mới hiểu sự ích lợi của niệm Phật. Muốn đào tạo các em thành những Phật tử chân chánh phải bày cho các em thực hành ngay đời sống trong hằng ngày của các em các hạnh Tinh tấn, Hỷ xả, Thanh tịnh, Trí tuệ và Từ bi. Sự thực hành đi đôi với sự lý giải mới giúp các em sống đúng chơn tinh thần đạo Phật.

4.- Không nói suông, phải tự mình làm gương cho các em - Dạy các em ăn chay, người dạy phải ăn chay, dạy các em niệm Phật người dạy phải niệm Phật, dạy các em Tinh tấn, Hỷ xả v.v. . . người dạy phải Tinh tấn, Hỷ xả . . . Chính đời sống của người dạy Phật Pháp rất có ảnh hưởng đến đời sống của các em, vì các em thường noi gương người lớn. Những sở hành của người dạy có phù hợp với những lời dạy mới mong các em bắt chước thực hành theo. Và chỉ có vậy, sự giảng giải Phật Pháp mới đem đến cho các em những kết quả thiết thật lợi ích.
5.-  Không đi ngược với những tánh tình trong đẹp của các em - Dạy cho các em quá nhiều nổi đau khổ của cuộc đời, trình bày một cách quá sống sượng có thể làm cho các em mất tin tưởng, phát sinh hoài nghi và chán nản; như vậy là đầu độc tinh thần của các em và phản ngược với tánh tình vui vẻ của tuổi trẻ. Dạy cho các em chớ nên tà dục, chớ nên uống rượu, nói cho các em rõ những tâm niệm độc ác của con người tức đã vô tình làm hoen ố tâm hồn trong sạch, hồn nhiên của các em và phạm một điều tối kỵ trong nghệ thuật giáo dục; vì rằng các em chưa đến tuổi nghĩ đến những sự tà dục, những sự uống rượu v.v. . . mà nay nhắc các em đừng nên tà dục, đừng nên uống rượu v.v. . . tức vô tình gợi cho các em nghĩ đến những điều ấy và vô tình làm những tà niệm xen lẫn trong tâm hồn trong trắng của tuổi trẻ
2/ Chuẩn bị một bài hướng dẫn Phật Pháp:
Tài liệu để giảng bài thì chung, hiện tại cả HT và đoàn sinh đều sử dụng chung 1 bộ tài liệu thống nhất. Tuy nhiên bài soạn chỉ là cái sườn, nói làm sao cho các em hiểu anh chị trưởng muốn truyền đạt cái gì, áp dụng như thế nào vào đời sống hằng ngày, v.v... mới là quan trọng. Ngoài ra, người HT đó phải có “ngôn ngữ” hợp thời đại, giản dị và dễ hiểu chừng nào thì quí chừng đó chứ không phải đem tài liệu “nguyên xi” ra trao cho các em! Nội dung Phật pháp là một; nhưng phương pháp giảng dạy, truyền đạt, mỗi người một kiểu, miễn sao nội dung truyền đạt phải giống nhau, không mâu thuẫn với nhau là đượcĐể 1 giờ học Phật pháp của đoàn sinh ngành Thiếu đạt được kết quả tốt, người HT hướng dẫn cần chú ý các vấn đề sau:
a) Xác định nội dung tâm lý đối tượng: nội dung đây là nội dung của tâm lý đối tựợng không phải nội dung bài giảng. Trong bài viết này chúng ta xác định rõ là Huynh trưởng GĐPT hướng dẫn Phật Pháp cho các em ngành Thiếu đòi hỏi những cách ứng xử khác nhau để thích hợp cũng như để thành công trong việc truyền đạt.

b)  Phong cách tư duy và ngôn ngữ: giúp chúng ta chuyển tải nội dung giáo lý ấy hay vấn đề ấy; phong cách này biểu hiện qua khả năng phân tích và lý luận, biện giải vấn đề một cách thông suốt nhạy bén, sắc sảo. Phong cách này ở đây được gọi chung là Tứ vô ngại giải mà trình độ thành tựu khác nhau tùy theo quá trình tu tập, rèn luyện.
·        Pháp vô ngại giải: đây là khả năng nắm bắt, phán đoán, lảnh hội một cách nhạy bén, vận dụng một cách thông suốt, tự tại các từ ngữ chuyên môn,… của một sự kiện hay một chủ đề giáo lý
·        Nghĩa vô ngại giải: khả năng thông suốt, nhạy bén đối với nội hàm của các từ ngữ; tất nhiên từ ngữ phải tương xứng với trình độ, tập quán ngôn ngữ, và nhận thức của người nghe
·        Từ vô ngại giải: thông thạo ngôn ngữ địa phương của thính chúng; nói năng lưu loát truyền cảm và đừng quên sự truyền cảm của tiếng mẹ đẻ là điều đã được chứng minh rất nhiều qua các sáng tác văn học.
·        Biện vô ngại giải: còn gọi là lạc thuyết  hay  nhạo thuyết vô ngại giải; đây là khả năng “biện tài vô ngại,” diễn đạt, biện luận khúc chiếc rành mạch. Khả năng này do trí tuệ của diễn giả, trình độ tập trung tư tưởng và y cứ trên định tuệ, diễn giả trả lời, đối đáp trôi chảy với những câu hỏi vấn nạn, làm nguời nghe hứng thú vì hiểu rõ những vấn đề.

c) Lựa chọn phương pháp hướng dẫn theo từng bài:Như trên đã trình bày, trong quá trình hướng dẫn các đề tài Phật Pháp người Huynh trưởng thường sử dụng 2 phương pháp lý giải và hoạt động tương tự như các phương pháp diễn giảng, thuyết trình, gợi mở vấn đáp, nêu vấn đề, trực quan, thảo luận đội, chúng v.v.. Việc chọn lựa phương pháp nào trong từng bài học không có 1 khuôn mẫu nhất định mà tuỳ thuộc vào khả năng của từng HT, từng không gian hoạt động…
* Phương pháp giáo dục là cách thức tác động của nhà giáo dục đến người được giáo dục thông qua việc tổ chức một cách hợp lý về mặt sư phạm những hoạt động và giao lưu của người nghe nhằm hình thành ý thức, bồi dưỡng tình cảm, rèn luyện kỹ xảo và thói quen hành vi nhân cách của họ.
Phương pháp giáo dục có quan hệ với phương tiện giáo dục và hình thức tổ chức giáo dục. Phương tiện giáo dục bao gồm các loại hình hoạt động khác nhau của đoàn sinh cũng như các vật thể và sản phẩm văn hoá vật chất và tinh thần được sử dụng trong quá trình giáo dục.
Có ba nhóm phương pháp giáo dục chính: các phương pháp tổ chức hoạt động xã hội và hình thành kinh nghiệm ứng xử; Nhóm các phương pháp hình thành ý thức (khái niệm, phán đoán, niềm tin) cá nhân; Nhóm các phương pháp kích thích hoạt động và điều chỉnh ứng xử. Với một bài học Phật Pháp chúng ta chú ý nhiều đến nhóm thứ 2. Trong việc sử dụng Phương pháp hướng dẫn ở nhóm thứ 2 có những phương cách giáo dục sau:
c.1 Phương pháp đàm thoại:Phương pháp này thể hiện ở chỗ HT và đoàn sinh trò chuyện với nhau, trao đổi ý kiến với nhau về một câu chuyện, vấn đề nào đó nhằm giáo dục đoàn sinh. Nhiệm vụ cơ bản của đàm thoại là lôi cuốn đoàn sinh vào phân tích và đánh giá các sự kiện, hành vi, hiện tượng trong bài học. Trên cơ sở đó hình thành cho họ thái độ đúng đắn với hiện thực xung quanh, đối với trách nhiệm đoàn sinh, trách nhiệm đạo đức của các em. Chủ đề các vấn đề đàm thoại càng gần với những kinh nghiệm bản thân đoàn sinh thì càng có sức thuyết phục.
Về việc tổ chức các buổi đàm thoại cần phải chuẩn bị chu đáo các câu chuyện để đàm thoại. Đề tài đàm thoại được thông báo trước để đoàn sinh chuẩn bị trước. Cần làm cho họ thấy được tầm quan trọng của đề tài đối với cuộc sống của các em, chứ không phải điều Huynh trưởng nghĩ ra để bắt các em trao đổi ý kiến. Mở đầu đàm thoại, Huynh trưởng cung cấp cho các em tài liệu và đặt ra những câu hỏi để các em thảo luận. Sau đó, khuyến khích, thúc đẩy các em mạnh dạn và tự do trình bày những ý nghĩ, những luận cứ, kết luận của mình. Huynh trưởng cần ít nói song cần chia sẻ những băn khoăn, kinh ngạc, vui mừng, tức giận với đoàn sinh khi các em phát biểu. Cuối giờ, Huynh trưởng tổng kết, nêu rõ những quan điểm, giải pháp, kết luận đúng đắn và gợi hướng hành động của tập thể và cá nhân để cùng có kết quả cuộc đàm thoại.
Về hình thức đàm thoại: Có hai cách thức: Đàm thoại giữa Huynh trưởng với tập thể đoàn sinh và đàm thoại giữa Huynh trưởng với một hoặc vài đoàn sinh. Trong khi đàm thoại, Huynh trưởng cần giữ đúng thái độ tôn trọng chân thành, thương yêu trong quan hệ anh em. Khi sử dụng phương pháp này cần chú ý tới đặc điểm lứa tuổi và cá nhân của đoàn sinh.
c.2 Phương pháp diễn giảng: Diễn giảng là trình bày một cách có hệ thống, mạch lạc, tương đối hoàn chỉnh bản chất của một vấn đề chính trị- xã hội, đạo đức, thẩm mỹ. Trung tâm lôgic của diễn giảng là sự khái quát lý luận về một lĩnh vực ý thức, khoa học. Các sự kiện cụ thể chỉ đóng vai trò minh hoạ hoặc là yếu tố xuất phát để tiến hành diễn giảng. Để nâng cao hiệu quả tác động về mặt nhận thức, xúc cảm của phương pháp diễn giảng cần đảm bảo tính thuyết phục của các luận chứng, tính hệ thống chặt chẽ của cấu trúc nội dung, tính chân thực của tình cảm, thái độ của người diễn giảng, tính sống động của ngôn từ được dùng khi diễn giảng. Qua diễn giảng cần giúp họ đi sâu vào việc nhận thức bản chất của các vấn đề được đề cập tới.

c.3 Phương pháp tranh luận: Đó là phương pháp hình thành cho đoàn sinh những phán đoán, đánh giá và niềm tin dựa trên sự va chạm các ý kiến, các quan điểm khác nhau. Nhờ đó nâng cao được tính khái quát, tính vững vàng và tính mềm dẻo của các tri thức thu nhận được. Tranh luận không yêu cầu phải đi đến giải pháp cuối cùng, những kết luận dứt khoát. Tranh luận giúp cho đoàn sinh những cơ hội phân tích các khái niệm về các lý do bảo vệ các quan điểm, niềm tin và thuyết phục những người khác tin vào những quan điểm đó.

Trong khi tranh luận đoàn sinh không chỉ phát biểu những ý kiến của mình mà còn phát hiện những điểm mạnh, điểm yếu trong những phán đoán của người khác. Tìm và chọn các luận chứng để bác bỏ những sai lầm và khẳng định những chân lý. Tranh luận đòi hỏi những người tham gia phải dũng cảm từ bỏ những quan điểm không đúng và chấp nhận những quan điểm đúng đắn. Những vấn đề đưa ra tranh luận phải có ý nghĩa thiết yếu đối với cuộc sống của đoàn sinh, phải thực sự làm cho các em băn khoăn suy nghĩ, xúc động và do đó thúc đẩy các em tham gia trao đổi ý kiến.

Huynh trưởng cũng như đoàn sinh phải chuẩn bị chu đáo cho cuộc tranh luận. Các vấn đề tranh luận cần phân công cho đoàn sinh chuẩn bị trước. Trong khi tranh luận cần phải đảm bảo tự do tư tưởng. Huynh trưởng không nên can thiệp thô bạo, vội vã phê phán những quan điểm sai của đoàn sinh, bắt các em chấp nhận những quan điểm của mình. Trái lại, cần phải tế nhị, chân thành, trầm tĩnh, biết hài hước nhưng không xúc phạm đến nhân phẩm của các em.

c.4 Phương pháp nêu gương: Đó là phương pháp nêu lên những gương điển hình, những mẫu mực cụ thể, sống động để đoàn sinh bắt chước, làm theo những tấm gương đó.

Điều đó phù hợp với tâm lý của trẻ là hay bắt chước. Song bắt chước không phải là sao chép một cách mù quáng, máy móc. Thông qua bắt chước các em vẫn có những hành động mới mẻ, đúng đắn, phù hợp với phương hướng chung của lý tưởng, vừa có hoạt động độc đáo, gần gũi với những tư tưởng chủ đạo của tấm gương mà các em bắt chước.

+ Hoạt động bắt chước của trẻ thường:
- Từ bắt chước các mẫu mực gần gũi đến bắt chước các mẫu mực xa.
- Từ chỗ bắt chước một cách vô ý thức đến chỗ bắt chước một cách chủ động.
- Từ chỗ sao chép toàn bộ hình tượng hành vi ứng xử đến chỗ chỉ mượn một số nét riêng rẽ.
- Từ chỗ bắt chước trong trò chơi đến chỗ bắt chước trong cuộc sống.
- Từ chỗ bắt chước vẻ bề ngoài (dáng điệu, cử chỉ) đến bắt chước những phẩm chất bên trong của nhân cách.
Tính chất bắt chước tuỳ theo lứa tuổi, sự mở rộng kinh nghiệm và trình độ phát triển về trí tuệ và đạo đức của họ.

Có thể phân biệt ba giai đoạn của cơ chế bắt chước: Ở giai đoạn đầu hành động cụ thể của người khác làm nảy sinh ở đoàn sinh hình ảnh chủ quan về hành động đó và lòng ham muốn hành động như thế. Ở giai đoạn thứ hai, mối liên hệ tấm gương cần bắt chước với những hành động kế tiếp mới được thiết lập. Ở giai đoạn ba, các hành động bắt chước và các hành động độc lập mới tổng hợp lại được nhờ ảnh hưởng tích cực của các tình huống nảy sinh trong cuộc sống và các tình huống giáo dục tạo ra.

Những tấm gương mà đoàn sinh thường bắt chước là những tấm gương thường ở xung quanh họ, ở nhà, ở trường, ở chùa. Đó là những tấm gương của những người thân trong gia đình, bạn bè, đặc biệt là của các anh chị Huynh trưởng, các vị Tăng - Ni, những nhân vật tích cực trong lịch sử, trong văn học, những anh hùng chiến đấu, trong sản xuất, những danh nhân văn hoá và khoa học. (Hiện tại đoàn sinh ngành Thiếu đang rơi vào một thái cực khó nhận định : bắt chước các ngôi sao ca nhạc, phim ảnh. Tuy nhiên, vấn đề này chúng ta khoan vội phê phán các em, bởi lẽ chỉ sau 1 thời gian ngắn việc này sẽ bị đào thải bởi bản thân sự việc không có tính vững bền)

3/Các lý thuyết hổ trợ cho việc hướng dẫn Phật Pháp:
* Mỗi vấn đề có bản chất lý luận riêng, Xác định được vấn đề thuộc loại nào, chúng ta có thể giúp người nghe có cơ sở lý luận để lãnh hội dễ dàng hơn; có 4 chiều hướng để đặt vấn đề (và phân tích vấn đề):

a. Nhất hướng: ví dụ đề tài “Mọi người đều phải chết” vấn đề hiển nhiên, không cần bàn cãi.
b. Phân biệt: Ví dụ đề tài “Sau khi chết, cái gì đi tái sinh?”: tùy theo tín ngưỡng tôn giáo, câu trả lời khác nhau và cơ sở lý luận là dựa vào giáo lý của tôn giáo ấy.
c. Cật vấn: ví dụ đề tài “Địa vị con nguời trong Đạo Phật là cao hay thấp?” không thể trả lời dứt khoát vì phải biết đặt con người trong những tương quan khác nhau (Trời, A Tu La, Súc sanh v..v..)
d. Xả Trí: ví dụ đề tài “Thế giới này hữu hạn hay vô hạn” Câu hỏi này vượt quá trí tuệ loài người, cũng có thể là một vấn đề siêu hình hay khoa học… nhưng thấy trước không thể vượt qua được vì không có cơ sở chung (trình độ về khoa học, về tôn giáo, sự khác biệt tín nguỡng, văn hoá…) cho nên nếu tranh luận hay lý luận đều không có lối thoát; những vấn đề này phải gác qua một bên.

Bốn trường hợp trên được coi là bản chất của đề tài/vấn đề được thảo luận. Bản chất ấy có khi khách quan, có khi chủ quan, có nghĩa là một số vấn đề được coi là nhất hướng, cật vấn hay xả trí… còn tùy thuộc nhận thức chủ quan của người nghe cũng như tùy thuộc vào cơ sở tư tưởng và ngôn ngữ đồng hay bất đồng giữa diễn giả và thính chúng. Vì vậy đôi khi để tránh cho buổi hướng dẫn khỏi bị dẫn đến tranh luận không lối thoát, Huynh trưởng cần xác định đề tài sẽ được trình bày thuộc trường hợp nào trong 4 trường hợp trên.

*  Quan sát đối tượng: có 4 phương diện để nhận định đối tượng nghe có dễ dàng chấp nhận, lảnh hội  những điều Huynh trưởng sẽ nói hay không.

1. Xứ/phi xứ: phán đoán các trường hợp: nên làm hay không nên làm; sự việc có thể xảy ra hay không thể xảy ra; vấn đề có kết luận hợp lý hay không hợp lý. Trình độ phán đoán của đối tượng tùy thuộc nhiều yếu tố như tuổi tác, sự phát triễn của trí tuệ, học lực, thành phần xã hội, tín nguỡng, tôn giáo, truyền thống và những điều kiện môi trường sinh hoạt nữa…

2. Thuyết Dụ: trong khi thuyết giảng, diễn giả hay dùng những giả thuyết, những thí dụ đề minh hoạ. Thuyết dụ là trình độ liên tưởng, khả năng lảnh hội những thí dụ, những giả thuyết v..v.. được sử dụng. Một ví dụ thông thường như nói “Phật như là sư tử giữa loài người hay tiếng của Phật là tiếng sư tử hống…” thính chúng có trình độ hiểu ngay phạm vi của thí dụ, mà không nhầm lẫn hiểu rằng Phật là một con sư tử.

3. Sở tri: trình độ phán đoán của người nghe đối với vấn đề được trình bày; trình độ cần thiết để người nghe có thể phân biệt được trong những điều mình nghe, cái gì thuộc thế gian, cái gì thuộc xuất thế gian, cái gì thuộc kinh nghiệm người đời, cái gì thuộc sở tri, sở chứng của bậc Thánh…

4. Đạo tích: khả năng phán đoán xem vấn đề được trình bày có liên hệ hay không liên hệ với sự tu tập. Mỗi vấn đề đều có khía cạnh áp dụng thực tiễn của nó. Những gì chỉ là lý thuyết suông phải được xem là không có nội dung của chân lý. Một thính giả nếu sau khi nghe xong một vấn đề mà không biết vấn đề ấy có thể áp dụng thực tế hay không thì rõ ràng người ấy chưa lảnh hội được vấn đề. Khả năng này tùy thuộc kinh nghiệm tu tập của người nghe cho nên người nghe chỉ có thể nắm bắt nhạy bén và thông suốt đề tài nào mình từng hành trí / rèn luyện, chứ không phải tùy thuộc đề tài mình đã nghe nhiều lần.


C. KẾT LUẬN

Tài liệu này, nhằm cung cấp 1 cách khái quát và chung nhất về các Phương pháp hướng dẫn Phật Pháp cho ngành Thiếu. Chủ đề không đi sâu vào nội dung phân tích các bài học được đưa ra. Bản thân người viết cũng chỉ có ước vọng cung cấp thêm cho quý anh chị HT trong tỉnh nắm rõ hơn về các Phương Pháp giáo dục hiện tại và việc áp dụng tại đơn vị. Phương pháp thì chung, đặc điểm đơn vị và cá nhân đoàn sinh thì riêng lẻ, do vậy sẽ không có 1 phương pháp nào ưu việt nhất trong từng bài học. Vấn đề này tuỳ thuộc và khả năng của từng Huynh trưởng phụ trách tuỳ từng thời điểm và không gian. Hy vọng nó sẽ có ích cho quý anh chị Huynh trưởng chúng ta. Người viết mong nhận được sự góp ý của quý anh chị Huynh trưởng để hoàn thiện tài liệu này.

                                                                                       
Tác giả: Hoa Sơn Đỉnh

PHỤ LỤC
Các cách phân chia nhận thức khác:
Cảm xúc
Lĩnh vực cảm xúc liên quan đến các mục đích thuộc về hứng thú, các thái độgiá trị, bao gồm 5 mức độ sau đây:
1.  Tiếp thu (receiving):Nhạy cảm với một sự động viên khuyến khích nào đó và có một sự tự nguyện tiếp thu hoặc chú tâm vào đó.
2.  Đáp ứng (responding):Lôi cuốn vào một chủ đề hoặc hoạt động hoặc sự kiện để mở rộng việc tìm tòi nó, làm việc với nó và tham gia vào đó.
3. Hình thành giá trị (valuing):Cam kết tiến tới một sự vững tin vào các mục tiêu, tư tưởng và niềm tin nào đó.
4. Tổ chức (organisation):Tổ chức các giá trị thành một hệ thống, có sự nhận thức hoặc sự xác đáng và các mối quan hệ của các giá trị phù hợp, và xây dựng nên các giá trị cá nhân nổi bật.
5. Đặc trưng hoá bởi một tập hợp giá trị (characterization by a value complex): Tích hợp các niềm tin, tư tưởng và thái độ thành một triết lí tổng thể hoặc tầm nhìn rộng như thế giới quan.
Người ta đã cố gắng phân chia mỗi mức độ kể trên thành hai ba thang bậc chi tiết hơn, và cho đến nay riêng trong lĩnh vực cảm xúc có đến 13 thang bậc.
Tâm vận
Lĩnh vực tâm vận liên quan đến các kĩ năng thao tác chân tay dùng đến cơ bắp hoặc những sự đáp ứng vận động hoặc đòi hỏi có sự phối hợp giữa cơ bắp và hệ thần kinh, bao gồm 5 mức độ sau đây:
1. Bắt chước (imitation):Làm theo một hành động đã được quan sát nhưng thiếu sự phối hợp giữa cơ bắp và hệ thần kinh.
2. Thao tác (manipulation):Làm theo một hành động đã được quan sát thường theo sự chỉ dẫn, thể hiện một số sự phối hợp giữa cơ bắp và hệ thần kinh.
3. Làm chuẩn xác (precison): Thực hiện một hành động thể lực với sự chuẩn xác, cân đối và chính xác.
4. Liên kết (articulation):Thực hiện thành thạo một hành động thể lực có sự phối hợp của một loạt các hành động khác.
5. Tự nhiên hoá (naturalization):Biến một hành động thể lực thành công việc thường làm để mở rộng nó ra và làm cho nó trở thành một sự đáp ứng tự động, không gò bó và cuối cùng thành một sự đáp ứng thuộc về tiềm thức hay bản năng.
Hiện nay chưa tìm thấy một tài liệu phân chia tỉ mỉ các mức độ tâm vận thành các thang bậc tỉ mỉ hơn như ở hai lĩnh vực nhận thức và cảm xúc, có lẽ đó là vấn đề đang được nghiên cứu.
 

Thứ Hai, 13 tháng 5, 2013

Phương hướng phát triển mới của Gia đình Phật tử Việt Nam




1. Bối cảnh hình thành Gia Đình Phật Tử:
Từ thế kỷ thứ 19 sang đầu thế kỷ 20, thực dân Pháp đã chia cắt nước ta làm ba miền để dễ cai trị. Triều đình nhà Nguyễn lại lo chấn hưng Nho học. Phật giáo bị lu mờ, bị xem là cổ hủ, tín đồ phần lớn chỉ lo việc cầu đạo, sa ngã vào tín ngưỡng hình thức thế tục. Trong khi đó, văn hóa Tây phương xâm lấn dần, được xem là trào lưu mới, văn minh. Thiên chúa giáo, với sự ủng hộ của thực dân đã phát triển mạnh, mang ý nghĩa tiến bộ, hợp thời.
Châu Á với truyền thống Phật giáo cũng lâm vào hoàn cảnh đó. Một số vị tôn túc thức thời đã tìm cách phục hưng Phật giáo vừa cho phù hợp với thời đại mới. Ở Tích Lan, Đại sư Dhammapala mở phong trào khôi phục truyền thống Phật giáo. Ở Trung Quốc, cư sĩ Dương Nhân Sơn lập Kỳ Hoàn tinh xá, triệu tập các nhà Phật học nghiên cứu các kinh sách bằng Hán, Anh, và Pa-li ngữ; Đại sư Thái Hư lập Học viện Vũ Xương đẩy mạnh việc chấn hưng Phật giáo. Các nước Myanmar, Sri Lanka, Nhật Bản, Hàn Quốc, Thái Lan cũng nổi lên phong trào đổi mới Phật giáo.
Từ năm 1920 khắp ba miền của đất nước, nhiều vị tôn túc Phật giáo trí đức cao vời đã hô hào và mở đầu phong trào chấn hưng Phật giáo Việt Nam. Ở miền Bắc có Đại sư Thanh Hanh giảng dạy Phật pháp thu hút đông đảo quần chúng Phật tử, ngài Đỗ Văn Hỷ ấn hành khá nhiều kinh sách Phật giáo; Ở miền Trung có các Đại sư Tuệ Pháp, Thanh Thái, Đắc Ân, Tâm Tịnh, Phước Huệ…  Ở miền Nam có các Đại sư Từ Phong, Khánh Hòa, Huệ Quang, Khánh Anh…  Chư vị đều là những tu sĩ nổi tiếng, thu hút được các giới Phật tử nhờ cách giảng dạy nghiêm túc, có phương pháp thiện xảo. Thế rồi từ  1930, 1932, 1935 các hội Phật học ở cả ba miền đã đươc thành lập, cải tiến hoạt động, song song với việc các kinh sách và tạp chí Phật giáo ngày một phổ biến nhiều, mang tính tân học Phật giáo.
Một phong trào có ảnh hưởng khá nhiều đến động cơ hình thành, cơ cấu tổ chức và phát triển của Gia đình Phật tử là tổ chức Hướng đạo sinh Việt Nam, một phát triển của Hướng đạo sinh Thế giới do Trung tướng người Anh Baden Powell đề xướng năm 1907 đã có hoạt động tại khá nhiều nơi trên thế giới. Năm 1930, phong trào này được du nhập vào Việt Nam do ông Trần Văn Khắc ở Hà Nội chủ xướng; chủ trương bổ sung giáo dục gia đình và học đường, giúp thanh thiếu niên rèn luyện tính khí, tháo vát, thích nghi với hoàn cảnh, trở thành công dân tốt, có trách nhiệm. Phong trào được sự tham gia tổ chức của các vị thời danh như Tạ Quang Bửu, Trần Duy Hưng, Lưu Hữu Phước, Tôn Thất Tùng.
Nhân lễ Phật Đản năm Ất Hợi (10-05-1935) được Hội An Nam Phật học tổ chức tại Huế, hình ảnh 52 em nhỏ mặc đồng phục đã gợi lên ý tưởng thành lập một tổ chức cho thanh thiếu niên Phật tử. Cư sĩ Bác sĩ Tâm Minh Lê Đình Thám, Chánh hội trưởng hội An Nam Phật học đã xây dựng ý tưởng này và đến năm 1940, đoàn Thanh niên Phật học Đức Dục ra đời với sự hướng dẫn trực tiếp của Cư sĩ. Khởi đầu, đoàn gồm các vị như Phạm Hữu Bình (Trưởng đoàn), Đinh Văn Nam (Phó đoàn), Ngô Điền (Thư ký), Đinh Văn Vinh, Ngô Thừa, Võ Đình Cường. Đoàn lớn mạnh không ngừng; đến năm 1944, đổi tên thành Gia đình Phật hóa phổ. Đại hội Gia đình Phật hóa phổ tổ chức tại chùa Từ Đàm gồm các đại biểu ở chín tỉnh miền Trung diễn ra từ 24 đến 26-4-1951 và cải danhGia đình Phật hóa phổ thành Gia đình Phật tử Việt Nam. Cư sĩ Võ Đình Cường được cử làm Trưởng Ban Hướng dẫn Gia Đình Phật tử Tổng hội Trung phần.
Từ đó, Gia đình Phật tử Việt Nam phát triển mạnh mẽ. Kể từ Đại hội toàn quốc năm 1953 tại Huế, Gia đình Phật tử tại Việt Nam do cư sĩ Tống Hồ Cầm làm Trưởng Ban Hướng dẫn đã mở rộng khắp miền Nam và mỗi gia đình đều có vị thầy Cố vấn Giáo lý. Tại Sài Gòn có quý ngài Thiện Hoa, Thiện Hòa, Thiền Định, Thanh Từ, Trí Hữu, Huyền Vi…
Trải qua cuộc đấu tranh chống chính quyền Ngô Đình Diệm kỳ thị tôn giáo, các thành viên Gia đình Phật tử đã hy sinh thân mạng, bị tù đày tra tấn cho đến khi chính quyền phản động ấy bị lật đổ. Sau ngày thống nhất đất nước, Gia đình Phật tử đình trệ một thời gian ngắn rồi được Giáo hội Phật giáo Việt Nam công nhận và được hoạt động trở lại. Ngày nay, Gia đình Phật tử đã có được 75.000 đoàn viên và huynh trưởng với 1.006 Gia đình tại 31 tỉnh thành trên ba miền đất nước.
 2. Những nhận định về quá trình hoạt động
Kể từ khi manh nha ý tưởng thành lập đến khi hình thành tổ chức và sau đó là hoạt động của Gia đình Phật tử, ta thấy sự phát triển mạnh mẽ của đoàn thể này. Ta có thể kể một số nguyên nhân chủ yếu đưa đến sự phát triển của Gia đình Phật tử.
a. Trước hết là manh nha của ý tưởng sáng lập xuất phát từ lòng yêu nước, yêu đạo Phật, muốn xây dựng một xã hội hiền thiện, đào tạo những người Phật tử chân chính, bảo vệ truyền thống tốt đẹp của Phật giáo và văn hóa nước nhà trước âm mưu thống trị, đồng hóa của thực dân xâm lược.
b. Thành phần lãnh đạo là chư Tôn đức, đạo hạnh, trí huệ cao vời và các cư sĩ tân học, thức thời đồng tâm hợp lực thực hiện lý tưởng Phật giáo, vì thế hệ trẻ rường cột của đất nước. Chư vị có tầm nhìn xa trông rộng, biết áp dụng trong tính sáng tạo các phương cách, nội dung sinh hoạt, tổ chức, phát triển của phong trào cải tiến Phật giáo trên thế giới, nhất là ở châu Á.
c. Nội dung sinh hoạt rất tốt, gây không khí tươi vui, hấp dẫn thanh thiếu niên, giới thiệu Phật giáo rất nhẹ nhàng trong khung cảnh ngôi chùa, các trò chơi, các buổi cắm trại, hoạt động văn nghệ… rất mới mẻ, phù hợp với tuổi trẻ. Chính cái mới, đứng đắn, thiết thực có sức hấp dẫn nhiều nhất.
d. Có tổ chức các nghành, các cấp, nhân sự chặt chẽ, từ vị thầy Cố vấn Giáo lý đến các huynh trưởng các cấp, đến bác Gia trưởng… đến mối liên hệ cấp gia đình, cấp quận huyện, tỉnh thành, địa phương và trung ương.
e. Cần nói thêm về sự mô phỏng và áp dụng sáng tạo của Gia đình Phật tử từ sinh hoạt của tổ chức Hướng đạo sinh. Chủ trương của hai bên đều gần như nhau, nhưng Gia đình Phật tử nhấn mạnh đến tính Phật giáo, tính Việt Nam. Do đó mà gia đình Phật tử phát triển mạnh, vượt hẳn Hướng đạo Việt Nam chỉ trong vòng 30 năm kể từ khi được thành lập.
3. Nhận định về tình hình hiện nay và góp ý về phương hướng phát triển mới
Trong bốn năm qua, kể từ khi Giáo hội chấp nhận Gia đình Phật tử là một phân ban của Ban Hướng dẫn Cư sĩ Phật tử, các hoạt động của Gia đình Phật tử có chuyển hướng tốt, mạnh mẽ, sinh động hơn rất nhiều. Các cuộc hội thảo, các trại huấn luyện, các công tác xã hội… nhiều hơn, có phẩm chất cao hơn, quy mô hơn so với trước.
Tuy vậy, so với những năm trước 1975 thì Gia đình Phật tử cũng không phát triển gì nhiều, và nhiều mặt công tác còn yếu hơn. Hãy xem tổng số huynh trưởng và đoàn viên hiện nay là 75.000 so với trước kia là 73.000; đây là hai con số xấp xỉ trong khi dân số nước ta tăng lên gấp đôi so với 40 năm trước đây. Một nguyên nhân chính trong việc Giáo hội PGVN chậm đánh giá tầm quan trọng của GĐPT là chính nhân sự hoạt động của GĐPT thiếu ổn định. Nghi kỵ, dèm pha, bất đồng ý kiến, chia rẽ… giữa các huynh trưởng về lập trường, về vị trí…
Nếu ta xét đến những nguyên nhân chủ yếu đưa đến sự phát triển của Gia đình Phật tử trước kia và xét tình hình hiện nay thì thiết nghĩ cũng có thể rút ra được một số điểm quan trọng để đưa vào kế hoạch, chương trình hoạt động trong phương hướng sắp đến của GĐPT. Theo chúng tôi, sau đây là một số điểm chúng ta cần xét đến và cố gắng thực hiện cho được trong kế hoạch phát triển GĐPT.
a. Củng cố nhân sự: Trước hết là sự đoàn kết giữa các huynh trưởng các cấp vì lý tưởng của GĐPT, không phân biệt quan điểm, lập trường, người cũ, người mới. Người cũ đã lâu không hoạt động nay hoạt động trở lại là điều đáng quý.
Chư tôn lãnh đạo trong GĐPT cần tin tưởng, giúp đỡ các huynh trưởng hoạt động, các tích cực khuyến nghị Giáo hội lưu tâm nhiều hơn đến GĐPT, cần tham gia lập kế hoạch, cần có ý kiến sáng tạo, cần có trách nhiệm nhiều hơn đối với GĐPT.
Các huynh trưởng cần tuân phục, chân thành, gần gũi với chư tôn để được chỉ đạo, giúp đỡ trong công tác. Đối với đoàn sinh, phải chăm lo gần gũi nhiều hơn.
Cần có Ban Bảo trợ, Ban Cố vấn vững mạnh.
b. Cải tiến tổ chức, hành chánh: Từ nay cho đến hết nhiệm kỳ còn hơn một năm nữa, phân ban GĐPT TW cần vận động qua các hội thảo, lập kiến nghị… để đến kỳ Đại hội Đại biểu PG toàn quốc sắp đến có thể thông qua Hiến chương có sửa đổi, công nhận phân ban GĐPT là một ban chính thức chứ không phải thuộc Ban Hướng dẫn Phật tử vì nội dung sinh hoạt của GĐPT cần độc lập để có thể phát triển nhanh chóng.
GĐPT cần có Ban Bảo trợ vững mạnh để giúp các chi phí hoạt động. Tuy vậy, GĐPT cần phải có quỹ riêng bằng cách đề nghị các đoàn viên, huynh trưởng đóng nguyệt liễm (có thể theo quý), trung bình mỗi thành viên đóng lệ phí mỗi tháng khoảng 4.000 đồng. Mỗi Gia đình Phật tử giữ 50%, 25% đóng góp cho phân ban GĐPT tỉnh thành, 25% đóng cho Ban Hướng dẫn GĐPT TW. Với 75.000 thành viên, Ban GĐPT TW mỗi tháng có khoảng 75.000.000 đồng tiền quỹ. Để thực hiện điều này, quý Thầy cố vấn giáo lý và các huynh trưởng cần vận động đoàn sinh và gia đình các em thuận tình đóng góp khoản lệ phí ít oi ấy.
c. Cải tiến nội dung sinh hoạt: Sở dĩ GĐPT thu hút được thanh thiếu niên từ khi mới được thành lập là do có nội dung sinh hoạt lành mạnh, mới mẻ và cần thiết. Để phát triển GĐPT trong thời hội nhập, chúng ta cần tìm ra cái mới, cái bổ ích, phù hợp với thời đại và tránh xa những tiêu cực của thời đại.
Cần tăng cường sự thiết thực và hấp dẫn trong sinh hoạt: hình thức lễ lạy, tụng kinh, các kỹ năng chuyên môn, âm nhạc, kịch, thảo luận các đề tài nhỏ, thông thường về gia đình, học đường, xã hội…, các trò chơi, các cuộc cắm trại qua đó rèn luyện sự sáng tạo, tháo vát, tinh thần đồng đội, trách nhiệm… ở các em.
Một nội dung cần thiết được thực hiện mạnh mẽ hơn đó là tham gia các việc công ích, từ thiện xã hội. Hình ảnh GĐPT thật hiếm thấy trong các công tác này: Vệ sinh đường phố, trồng cây xanh, cứu trợ bão lụt, giúp người cơ nhỡ, tiếp sức mùa thi…
d. Tăng cường công tác đối ngoại: Tạo cho được mối liên kết giữa GĐPT tại VN với các GĐPT ở nước ngoài, vì lý tưởng GĐPT, vì Đạo pháp và dân tộc, tiến tới sự đoàn kết tương trợ.
Cần có sự liên kết chặt chẽ với các ban nghành trong Giáo hội để được hỗ trợ, chia xẻ công tác. Ví dụ: tham gia công tác xã hội với Ban Từ thiện Xã hội, đóng góp công sức vào các hoạt động, lễ lạc của Giáo hội trung ương, địa phương.
Đối với gia đình của các đoàn sinh, các huynh trưởng cố gắng có sự liên hệ chặt chẽ hơn để tìm hiểu các em, để được góp ý. Thỉnh thoảng tổ chức cuộc gặp mặt chung của phụ huynh các em, tạo không khí đầm ấm và sự ủng hộ mạnh mẽ hơn.
 4. Kết luận
Trên đây chỉ là một số ý kiến đóng góp cho việc phát triển Gia đình Phật tử. Chúng ta không quên lời nói tâm huyết của vị tiên phong trong việc thành lập GĐPT, Bác sĩ Tâm Minh Lê Đình Thám: “Không có một thành tựu bền vững nào lại không nhắm đến hàng ngũ thiếu niên, họ là những người nối tiếp chúng ta trong ngày mai.” Xây dựng một xã hội hiền thiện thấm nhuần tinh thần Phật giáo là mục đích của chúng ta. Xây dựng vững bền và phát triển đúng hướng GĐPT là vô cùng quan trọng.
ĐĐ. Thích Nguyên Thành - Phó Viện Trưởng Học viện PGVN tại Huế

Created By Sora Templates